Chính sách an toàn vĩ mô (tiếng Anh: Macroprudential policy) là chính sách sử dụng các công cụ an toàn để hạn chế các rủi ro mang tính hệ thống, các rủi ro đối với tổng thể hệ thống tài chính nhằm giảm thiểu khả năng đổ vỡ của hệ thống tài chính.
Kiểm tra sức chịu đựng (tiếng Anh: Stress Testing) là tập hợp các kĩ thuật và phương pháp được sử dụng để đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro hay mức độ tổn thương của các tổ chức tài chính, ngân hàng trước sự kiện rủi ro, bất lợi.
Bộ chỉ số lành mạnh tài chính (tiếng Anh: Financial Soundness Indicators) gồm 40 chỉ số tài chính do Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) xây dựng nhằm đo lường sự lành mạnh tài chính mỗi quốc gia.
Ngày thứ Năm của Bạc (tiếng Anh: Silver Thursday) đề cập đến việc giá bạc giảm mạnh và sự hoảng loạn xảy ra trên thị trường hàng hóa vào Thứ Năm ngày 27 tháng 3 năm 1980.
Hiệu ứng đồng bảo hiểm (tiếng Anh: Co-insurance Effect) cho rằng các công ty tham gia vào M&A sẽ được hưởng lợi từ sự gia tăng tính đa dạng hóa đến từ việc mở rộng danh mục sản phẩm hoặc cơ sở khách hàng và làm giảm chi phí vay.
Cộng hưởng (tiếng Anh: Synergy) là khái niệm cho rằng giá trị và hiệu suất của hai công ty khi được kết hợp với nhau trong sáp nhập và mua lại sẽ lớn hơn so với tổng giá trị và hiệu suất của từng công ty khi chúng hoạt động riêng biệt.
Thiệt hại có tính chất hậu quả (tiếng Anh: Consequential Loss) là tổn thất gián tiếp do người được bảo hiểm không có khả năng sử dụng tài sản hoặc thiết bị kinh doanh.
Phòng thủ kamikaze (tiếng Anh: Kamikaze Defense) là một cơ chế phòng thủ mà đôi khi một công ty buộc phải sử dụng để chống lại một cuộc thâu tóm thù địch từ một người hoặc một công ty khác.
Bảo hiểm tội phạm trong kinh doanh (tiếng Anh: Business Crime Insurance) là một loại hợp đồng bảo hiểm mà doanh nghiệp có thể mua để bảo vệ bản thân khỏi tổn thất từ tội phạm liên quan đến kinh doanh.
Nguy cơ tổn thất có tính thảm họa (tiếng Anh: Catastrophe Hazard) là thuật ngữ bảo hiểm đề cập đến rủi ro xảy ra tổn thất cao gây ra bởi một sự kiện có sức tàn phá lớn, ví dụ như bão, lũ hoặc khủng bố có ảnh hưởng đến những người tham gia bảo hiểm.
Cận vệ trắng (tiếng Anh: White Squire) là một nhà đầu tư hoặc công ty thân thiện mua cổ phần của công ty mục tiêu để ngăn chặn một vụ thâu tóm thù địch.
Mua dự phòng (tiếng Anh: Panic Buying) là loại hành vi được đánh dấu bằng sự gia tăng nhanh chóng về khối lượng mua, thường làm cho giá của hàng hóa hoặc chứng khoán tăng lên.
Cục Quản lí, giám sát bảo hiểm (tiếng Anh: Department of the Insurance Supervisory Authority) là đơn vị thuộc bộ máy quản lí nhà nước của Bộ Tài chính, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi cả nước.
Ngân hàng thanh toán Quốc tế (BIS) là định chế tài chính liên chính phủ được thành lập năm 1930 để hỗ trợ và phối hợp quá trình chuyển các khoản bồi thường chiến tranh trong thế chiến I giữa các Ngân hàng trung ương.
Trái chủ (tiếng Anh: Bondholder) là người cho nhà phát hành vay tiền thông qua việc mua trái phiếu. Đổi lại, các trái chủ nhận được các khoản thanh toán lãi không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty và khoản vốn gốc khi trái phiếu đáo hạn.
Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính (tiếng Anh: Department of Banking and Financial Institutions) là đơn vị thuộc Bộ Tài chính hoạt động về lĩnh vực thị trường tài chính, dịch vụ tài chính và định chế tài chính khác.
Phái sinh ngoại hối (tiếng Anh: Foreign exchange derivative) là hợp đồng tài chính giữa người mua và người bán liên quan đến việc trao đổi hai loại tiền tệ vào một ngày trong tương lai theo một tỉ lệ nhất định.
Phái sinh hàng hóa (tiếng Anh: Commodity derivative) là một công cụ tài chính có giá trị phụ thuộc vào giá trị của hàng hóa chẳng hạn như ngũ cốc, năng lượng và kim loại.
Bảo hiểm tội phạm máy tính (tiếng Anh: Computer Crime Insurance) là một loại hợp đồng bảo hiểm cung cấp sự bảo vệ cho công ty trước những hành động phạm pháp của nhân viên được thực hiện thông qua việc sử dụng máy tính.
Ông Phan Đức Tú cho rằng muốn tăng tín dụng, vốn tự có của các ngân hàng phải tăng lên tương ứng, là áp lực rất lớn với các ngân hàng thương mại khi vừa phải tăng trưởng để phục vụ tăng trưởng của nền kinh tế, nhưng vừa phải đáp ứng được các tiêu chuẩn, yêu cầu theo thông lệ quốc tế.