Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là bất kể các hành vi trực tiếp hay gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
Ngoại ứng tích cực (tiếng Anh: Positive Externalities) là những lợi ích mang lại cho bên thứ ba (không phải là người mua và người bán), và lợi ích đó cũng không được phản ánh vào giá bán.
Gièm pha doanh nghiệp khác là hành vi trực tiếp hay gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
Ép buộc trong kinh doanh là hành vi đe doạ hoặc cưỡng ép khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch đối với doanh nghiệp đó.
Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh là việc tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh hoặc tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác…
Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lí… làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hoá, dịch vụ.
Cơ quan quản lí người tiêu dùng và thị trường Hà Lan (tiếng Anh: Netherlands Authority for Consumers and Markets; viết tắt: ACM) là một cơ quan quản lí độc lập bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và doanh nghiệp tại Hà Lan.
Kiểm soát tập trung kinh tế là toàn bộ các hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giám sát, tác động vào chủ thể tham gia tập trung kinh tế hoặc chuẩn bị tham gia tập trung kinh tế trên cơ sở các qui định của pháp luật cạnh tranh.
Pháp luật cạnh tranh (tiếng Anh: Competition law) là tổng hợp các qui phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh giữa các chủ thể cạnh tranh trên thị trường và hoạt động tố tụng cạnh tranh.
Lí thuyết cạnh tranh của trường phái Áo thể hiện một hướng đi khác so với quan điểm cạnh tranh của trường phái cổ điển mới, nó chỉ ra cạnh tranh trong thế giới hiện thực, khiến giới kinh tế học phải xem xét lại vấn đề cạnh tranh.
Trường phái Chicago trong cạnh tranh có quan điểm chủ đạo là chính phủ chỉ nên đóng vai trò tối thiểu, như làm người bảo đảm pháp luật và trật tự xã hội, phân định quyền sở hữu,… tuy nhiên phải đảm bảo khuyến khích cạnh tranh và chống độc quyền.
Lí luận cạnh tranh của John Bates Clark quan tâm đến tác động tiêu cực của độc quyền và kết luận rằng khi những quyền lực kinh tế như vậy còn tồn tại thì chúng cần bị hạn chế nếu muốn duy trì tình trạng cạnh tranh hoàn hảo.
Kinh tế ban đêm (tiếng Anh: Night-time economy) được sử dụng để mô tả một loạt các hoạt động từ một buổi đi nghe nhạc kịch, một bữa ăn tối với gia đình đến một đêm đi chơi tại một câu lạc bộ (club).
Tăng trưởng kép (tiếng Anh: Compound Growth) là khái niệm dùng để chỉ sự tăng trưởng được tích lũy trong một thời gian dài, giống như sự gia tăng của một khoản tiền được hưởng lãi kép.
Chính sách cạnh tranh (tiếng Anh: Competition policy) bao gồm cả pháp luật, cơ chế bảo đảm thực hiện, cũng như những biện pháp kinh tế kích thích cạnh tranh trên thị trường.
Hiệu ứng lan tỏa (tiếng Anh: Spillover effects) đề cập đến các sự kiện không lường trước tại một quốc gia lại gây ảnh hưởng đối với nền kinh tế của các quốc gia khác.
Thế tiến thoái lưỡng nan của chi phí chìm (tiếng Anh: Sunk Cost Dilemma) mô tả sự khó khăn về mặt cảm xúc khi quyết định nên tiến hành hay từ bỏ một dự án, khi mà đã tốn thời gian và tiền bạc, nhưng chưa đạt được kết quả mong muốn.
Báo cáo PCEPI tốt hơn kỳ vọng đã giúp củng cố kịch bản Fed hạ lãi suất trong cuộc họp tháng 12, thúc đẩy các chỉ số chính của chứng khoán Mỹ kết thúc tuần với kết quả tích cực.