|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kiến thức Kinh tế

Lấy mẫu kiểm toán (Audit Sampling) là gì? Rủi ro của phương pháp kiểm toán chọn mẫu

09:36 | 30/08/2019
Chia sẻ
Lấy mẫu kiểm toán (tiếng Anh: Audit Sampling) giúp cho kiểm toán viên thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán về các đặc trưng của phần tử được chọn, nhằm hình thành hoặc củng cố kết luận về tổng thể.
financial-audit-auditing-tax-process-paper-sheet-vector-9057794

Hình minh họa. Nguồn: VectorStock

Lấy mẫu kiểm toán

Định nghĩa

Lấy mẫu kiểm toán trong tiếng Anh là Audit Sampling.

Lấy mẫu kiểm toán được định nghĩa như sau: "Là việc áp dụng các thủ tục kiểm toán trên số phần tử ít hơn 100% tổng số phần tử của một tổng thể kiểm toán sao cho tất cả các đơn vị lấy mẫu đều có cơ hội được lựa chọn nhằm cung cấp cho kiểm toán viên cơ sở hợp lý để đưa ra kết luận về toàn bộ tổng thể".

(Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 530)

Tính cấp thiết của việc lấy mẫu kiểm toán

Việc kiểm toán toàn diện không đem lại hiệu quả do tiêu tốn quá nhiều chi phí, thời gian và công sức.

Khi tiến hành kiểm soát trên cơ sở mẫu chọn sẽ đáp ứng tính kịp thời của thông tin, thời gian kiểm toán trên mẫu thấp hơn việc kiểm toán toàn diện, giúp cho doanh nghiệp được kiểm toán nhanh chóng tiếp tục tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường.

Kiểm toán toàn bộ cũng không thể giúp kiểm toán viên phát hiện mọi sai phạm hoặc đưa ra kết luận đúng tuyệt đối do luôn tồn tại những nghiệp vụ kinh tế không được ghi nhận do nguyên nhân chủ quan và khách quan.

Rủi ro từ việc thực hiện phương pháp chọn mẫu

Rủi ro lấy mẫu

Là rủi ro xảy ra khả năng kết luận của kiểm toán viên dựa vào điều tra mẫu có thể khác với nếu kiểm tra trên toàn bộ tổng thể với cùng một thủ tục.

Rủi ro ngoài lấy mẫu

Là rủi ro khi kiểm toán viên đi đến kết luận sai vì các nguyên nhân không liên quan đến cỡ mẫu. Ví dụ như kiểm toán viên hiểu sai bằng chứng hoặc không nhận diện được sai sót, kiểm toán viên áp dụng các thủ tục kiểm toán không thích hợp.

Nguyên nhân của rủi ro

Kiểm toán viên đánh giá sai lầm về rủi ro tiềm tàng: Xảy ra khi kiểm toán viên đánh giá rằng có ít sai phạm trọng yếu trong đối tượng kiểm toán nên quyết định giảm qui mô kiểm toán.

Kiểm toán viên đánh giá sai lầm về rủi ro kiểm toán: Ví dụ như khi kiểm toán viên giảm khối lượng, qui mô mẫu kiểm toán cần thiết do đánh giá quá cao vào hệ thống kiểm soát nội bộ trong việc ngăn chặn và sửa chữa các sai phạm.

Kiểm toán viên lựa chọn thủ tục kiểm toán không thích hợp và thực hiện việc kiểm toán không hợp lí: Xảy ra khi kiểm toán viên chọn các thử nghiệm kiểm toán không phù hợp với mục tiêu kiểm toán.

(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Lý thuyết kiểm toán, NXB Tài chính)

Hằng Hà