Chế độ tiền tệ (Monetary System) là gì?
Hình minh họa (Nguồn: Steemit)
Chế độ tiền tệ (Monetary System)
Chế độ tiền tệ - danh từ, trong tiếng anh được dùng bởi cụm từ Monetary System hoặc Monetary Standard.
Chế độ tiền tệ (hay còn gọi là bản vị tiền tệ) là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một quốc gia được xác định bằng luật pháp dựa trên một căn bản nhất định. Căn bản đó được gọi là bản vị tiền tệ (Monetary Standard). (Theo Giáo trình Tiền tệ Ngân hàng, NXB Thống kê)
Lịch sử tiền tệ cho thấy rằng bản vị tiền tệ có thể là hàng hóa, bạc, vàng hay ngoại tệ. Việc chọn hàng hóa không phải kim loại làm bản vị tiền tệ có từ thời xa xưa khi người ta chưa phát hiện ra kim loại.
Chẳng hạn vào thế kỉ 13 ở Anh, đồng penny được định nghĩa có giá trị tương đương với 32 hạt lúa mì "tròn khô và lấy ở chính giữa nhánh lúa mì". Tuy nhiên, về sau này các nhà kinh tế học chỉ nói đến chế độ bản vị bạc, vàng và ngoại tệ chứ không bàn đến chế độ bản vị hàng hóa không kim loại.
Chế độ đơn bản vị bạc và chế độ đơn bản vị vàng
Chế độ bản vị bạc - danh từ, trong tiếng Anh được dùng bởi cụm từ Gold Standard System.
Chế độ bản vị vàng - danh từ, trong tiếng Anh được dùng bởi cụm từ Gold Standard System.
Từ khi phát hiện ra bạc và vàng, người ta nhận thấy rằng bạc và vàng do những thuộc tính tự nhiên của nó rất thuận tiện cho việc sử dụng làm tiền tệ. Từ đó người ta đã dùng bạc hay vàng đúc thành tiền theo một hình dáng và trọng lượng nhất định và cho lưu hành trong nước như là đồng tiền chính thức, hợp pháp và có hiệu lực thanh toán vô hạn trên phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Nước nào dùng bạc làm bản vị thì gọi là chế độ đơn bản vị bạc, còn nước nào dùng vàng làm bản vị thì gọi là chế độ đơn bản vị vàng.
Đặc điểm của chế độ đơn bản vị bạc và đơn bản vị vàng
Đặc điểm chung của chế độ đơn bản vị bạc và đơn bản vị vàng như sau :
- Định nghĩa đơn vị tiền tệ theo bạc hoặc theo vàng, chẳng hạn năm 1775 dollar Mỹ được định nghĩa bằng 25,92 gram bạc ròng.
- Cho phép bạc và vàng tự do lưu thông từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại.
- Giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền bằng đúng giá trị kim loại đúc thành tiền.
Lúc dầu do bạc tương đối phổ biến hơn vàng nên người ta đã dùng bạc làm tiền trước tiên vì lúc ấy vàng còn khan hiếm và quí giá nên nếu dùng vàng làm tiền sẽ không tiện lợi cho lưu thông vì nó quá nhỏ cho một giá trị tương đối lớn.
Dần dần có nhiều mỏ vàng được khám phá ra và vàng trở nên phổ biến hơn khiến các nước sử dụng cả bạc lẫn vàng làm tiền tệ, từ đó chế độ song bản vị ra đời. (Theo Giáo trình Tiền tệ Ngân hàng, NXB Thống kê)