Thuyết tiền tệ Friedman (Friedman's Monetary Theory) là gì?
Milton Friedman (Nguồn: Pinterest)
Thuyết tiền tệ Friedman (Friedman's Monetary Theory)
Thuyết tiền tệ Friedman - danh từ, trong tiếng Anh được gọi là Friedman's Monetary Theory.
Năm 1956 Milton Friedman đã phát triển thuyết tiền tệ Friedman trong bài báo nổi tiếng với nhan đề "Học thuyết số lượng tiền tệ : Một sự xác nhận lại". Mặc dù Friedman thường xuyên dẫn chiếu đến Fisher và học thuyết số lượng tiền tệ nhưng sự phân tích của ông ta về cầu tiền tệ thực sự sát với sự phân tích của thuyết tiền tệ Keynes và thuyết tiền tệ Cambridge hơn là thuyết giao dịch tiền tệ Fisher. (Theo Giáo trình Tiền tệ Ngân hàng, NXB Thống kê)
Cũng giống như những người đi trước, Friedman tìm cách trả lời câu hỏi tại sao người ta giữ tiền? Thay vì phân tích những động cơ đặc biệt khiến người ta giữ tiền như Keynes đã làm, Friedman đơn giản nêu lên rằng cầu tiền tệ bị ảnh hưởng bởi cùng những nhân tố ảnh hưởng đến cầu của bất kì tài sản nào và áp dụng học thuyết cầu tài sản vào cầu tiền tệ.
Phương trình cầu tiền tệ trong thuyết tiền tệ Friedman
Học thuyết cầu tài sản chỉ ra rằng cầu tiền tệ là một hàm số của những tài nguyên sẵn sàng dùng cho cá nhân và lợi nhuận kì vọng của các tài sản khác so với lợi nhuận kì vọng của tiền tệ. Từ sự phân tích đó, Friedman đưa ra phương trình về cầu tiền tệ như sau:
Md/P = f(YP, rb - rm, re - rm, πe - rm)
+ - - -
Trong đó:
Md/P = cầu tiền tệ thực sự.
Yp = biến mà Friedman dùng để đo lường của cải, nó chính là thu nhập trong dài hạn.
rm = lợi nhuận kì vọng của tiền tệ.
Tb = lợi nhuận kì vọng của trái phiếu.
re = lợi nhuận kì vọng của cổ phiếu.
πe = tỉ lệ lạm phát kì vọng.
Trong mô hình trên dấu (+) chỉ mối quan hệ cùng chiều trong khi dấu (-) chỉ quan hệ trái chiều. Sau đây sẽ giải thích chi tiết hơn về mối quan hệ giữa các biến trong hàm cầu tiền tệ của Friedman:
- Bởi vì nhu cầu về một tài sản nào đó quan hệ cùng chiều với của cải cho nên nhu cầu tiền tệ cũng quan hệ cùng chiều với biến mà Friedman sử dụng để đo lường của cải (Yp) hay thu nhập trong dài hạn.
Khác với phạm trù thu nhập thông thường, thu nhập dài hạn mà Friedman sử dụng ở đây xem như bất biến hay không phụ thuộc vào tính chất chu kì của nền kinh tế.
- Theo Friedman, bên cạnh tiền tệ người ta có thể giữ tài sản dưới nhiều hình thức khác nhưng có thể gộp lại thành 3 loại: trái phiếu, cổ phiếu và hàng hóa.
Động cơ khiến người ta thích giữ tài sản hơn giữ tiền tệ là ở chỗ lợi nhuận kì vọng của các tài sản này so với lợi nhuận kì vọng của việc giữ tiền. Do đó, cầu tiền tệ biến động trái chiều với chênh lệch lợi nhuận kì vọng của các tài sản này so với lợi nhuận kì vọng của tiền tệ (rb - rm, re - rm, πe - rm). (Theo Giáo trình Tiền tệ Ngân hàng, NXB Thống kê)