|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kiến thức Kinh tế

Quản lí dựa trên hoạt động (Activity Based Management - ABM) là gì? Ví dụ

15:58 | 26/11/2019
Chia sẻ
Quản lí dựa trên hoạt động (tiếng Anh: Activity Based Management, viết tắt: ABM) là hệ thống nhằm xác định khả năng sinh lợi trong mọi khía cạnh của doanh nghiệp, để củng cố những điểm mạnh và cải thiện hoặc loại bỏ những điểm yếu trong doanh nghiệp.
depositphotos_97947804-stock-photo-business-acronym-abm-activity-based

Hình minh họa. Nguồn: depositphotos.com

Quản lí dựa trên hoạt động

Khái niệm

Quản lí dựa trên hoạt động trong trong tiếng Anh là Activity Based Management, viết tắt là ABM.

Quản dựa trên hoạt động (ABM) là một hệ thống nhằm xác định khả năng sinh lợi trong mọi khía cạnh của doanh nghiệp để có thể củng cố những điểm mạnh và cải thiện hoặc loại bỏ những điểm yếu trong doanh nghiệp.

ABM tìm cách xác định rõ ràng những lĩnh vực đang khiến doanh nghiệp thua lỗ để loại bỏ hoặc cải thiện chúng nhằm gia tăng lợi nhuận chung. ABM phân tích chi phí nhân công, thiết bị, cơ sở vật chất, phân phối, chi phí chung và các yếu tố khác trong kinh doanh để xác định và phân bổ chi phí hoạt động. 

ABM có thể được áp dụng cho nhiều loại tổ chức khác nhau, bao gồm các công ty sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ, các tổ chức phi lợi nhuận, trường học và cơ quan chính phủ. ABM có thể cung cấp thông tin chi phí về bất kì lĩnh vực hoạt động nào trong doanh nghiệp.

Ngoài việc cải thiện lợi nhuận và sức mạnh tài chính tổng thể của công ty, kết quả phân tích ABM có thể giúp công ty thiết lập kế hoạch ngân sách hợp lí hơn và dự báo tài chính dài hạn chính xác hơn.

Ví dụ về ABM

ABM có thể được sử dụng để phân tích lợi nhuận của sản phẩm mới mà công ty đang bán, bằng cách xem xét chi phí marketing, chi phí sản xuất và bán hàng, yêu cầu bảo hành và mọi chi phí hoặc thời gian sửa chữa cần thiết cho sản phẩm bị trả lại hoặc đổi trả.

Nếu công ty phụ thuộc vào bộ phận nghiên cứu và phát triển, ABM có thể được sử dụng để xem xét chi phí vận hành bộ phận đó, chi phí thử nghiệm sản phẩm mới và liệu các sản phẩm được bộ phận đó phát triển có mang lại lợi nhuận hay không.

Một ví dụ khác có thể là công ty X bất kì mở thêm một văn phòng mới thứ hai. ABM có thể giúp ban quản đánh giá chi phí vận hành địa điểm đó, bao gồm chi phí nhân viên, cơ sở vật chất và chi phí chung, sau đó xác định xem liệu lợi nhuận tạo ra bởi văn phòng đó có đủ để bù đắp cho các chi phí đó hay không.

Lưu ý đặc biệt

Rất nhiều thông tin được thu thập trong ABM được lấy từ thông tin được thu thập từ một công cụ quản lí khác là kế toán chi phí dựa trên hoạt động (ABC).Trong khi ABM tập trung vào các qui trình kinh doanh và hoạt động quản lí thúc đẩy các mục tiêu kinh doanh của tổ chức, ABC tìm cách xác định và giảm những nhân tố phát sinh chi phí bằng cách tối ưu hóa các nguồn lực.

Cả ABC và ABM đều là các công cụ giúp quản lí các hoạt động vận hành nhằm cải thiện hiệu suất của một thực thể kinh doanh hoặc toàn bộ tổ chức.

ABC có thể được coi là một nhánh của ABM. Bằng cách sắp xếp chi phí kinh doanh như vật tư, tiền lương và hoạt động cho thuê vào qui trình kinh doanh, sản phẩm, khách hàng và hoạt động phân phối, ABC giúp cải thiện hiệu quả và tính minh bạch của ban quản lí.

(Theo investopedia)

Giang