|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kiến thức Kinh tế

Các nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng (Bank Payment Obligations - BPO) là gì?

17:45 | 09/02/2020
Chia sẻ
Các nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng (tiếng Anh: Bank Payment Obligations, viết tắt: BPO) là sự tích hợp của hai phương thức tín dụng chứng từ và ghi sổ, để tích hợp được điểm mạnh và hạn chế điểm yếu, rủi ro của hai phương thức này.
Các nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng (Bank Payment Obligations - BPO) là gì? - Ảnh 1.

Hình minh họa

Các nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng

Khái niệm

Các nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng trong tiếng Anh là Bank Payment Obligations, viết tắt là BPO.

Theo điều khoản 3 URBPO, các nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng (BPO) là một cam kết độc lập và không thể hủy ngang của một ngân hàng có nghĩa vụ sẽ thanh toán ngay hoặc cam kết thanh toán về sau và trả tiền khi đáo hạn một số tiền nhất định cho ngân hàng tiếp nhận sau khi xuất trình tất cả các bộ dữ liệu do dữ liệu cơ sở đã được thiết lập yêu cầu và cho kết quả so khớp phù hợp hoặc đã chấp nhận so khớp không phù hợp theo đúng qui định.

URBPO là một tập quán thương mại quốc tế của ICC dùng để điều chỉnh BPO, thay vì UCP điều chỉnh thư tín dụng thương mại.

Đặc trưng của phương thức thanh toán BPO

- BPO là một cam kết của ngân hàng có nghĩa vụ cam kết trả tiền cho ngân hàng tiếp nhận BPO, tức là ngân hàng người bán không trả tiền trực tiếp cho người bán. Việc hoàn trả tiền từ ngân hàng thụ hưởng BPO cho người bán sẽ được thực hiện theo thỏa thuận riêng kí kết giữa ngân hàng người bán và người bán. 

- BPO là một cam kết trả tiền độc lập và không thể hủy ngang. BPO không được chuyển nhượng giống như L/C chuyển nhượng.

- Không gian pháp lí của BPO là B2B (Ngân hàng - Ngân hàng). Không gian pháp lí đơn nhất này của BPO sẽ giảm thiểu được các rủi ro thường phát sinh do sự khác biệt gây ra trong giao dịch.

- Ngân hàng có nghĩa vụ trả tiền cho ngân hàng thụ hưởng BPO chỉ căn cứ vào việc so khớp bộ dữ liệu thương mại với dữ liệu cơ sở đã thiết lập không căn cứ vào các chứng từ thương mại văn bản do người bán xuất trình, dù bộ dữ liệu thương mại này được trích từ các chứng từ thương mại văn bản đó.

- Ngôn ngữ vận hành BPO, ngoài tiếng Anh thông dụng, là Các Mẫu tin ISO 20022 TSMT messages.

- Việc so khớp và kiểm trả các dữ liệu thương mại được thực hiện bằng máy qua Hệ ứng dụng so khớp dữ liệu giao dịch (TMA), nhờ đó tránh được tính chủ quan, giữ được tính trung lập và độc lập. 

- TMA là một máy, do đó phải có tổ chức quản lí, vận hành nó, đó là Trade Services Utility. Các ngân hàng muốn sử dụng TMA phải đăng kí với tổ chức quản lí trên.

- Trong cơ chế thanh toán dựa vào chứng từ văn bản, vấn đề giải quyết sự khác biệt phát sinh từ đối chiếu chứng từ rất phức tạp và mất nhiều thời gian. Ngược lại trong phương thức BPO, vấn đề giải quyết khác biệt dữ liệu số nhanh chóng, kịp thời trong quá trình vận hành BPO là nhờ ở không gian pháp lí đơn nhất và số hóa chứng từ thương mại. 

(Tài liệu tham khảo: Phương thức thanh toán BPO thay thế L/C, NXB Lao động)

Giang