Mô hình ưa thích tiền mặt (Liquidity Preference Framework) là gì?
Hình minh họa
Mô hình ưa thích tiền mặt (Liquidity Preference Framework)
Mô hình ưa thích tiền mặt - danh từ, trong tiếng Anh được dùng bởi cụm từ Liquidity Preference Framework.
Khi nghiên cứu các nhân tố tác động đến lãi suất, người ta đã phát triển hai mô hình giải thích sự biến động của lãi suất: Mô hình quĩ cho vay và mô hình ưa thích tiền mặt.
Mô hình ưa thích tiền mặt được dùng để phân tích ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ tới mức lãi suất cân bằng. Khi nghiên cứu cung cầu tiền, ta thấy có mối liên hệ giữa lãi suất với cung cầu tiền trên thị trường, đó là: tương ứng với mỗi mức cung cầu tiền sẽ xác định được một mức lãi suất cân bằng tương ứng.
Mô hình ưa thích tiền mặt
Do đó, có thể nói những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu tiền tệ trên thị trường cũng chính là những nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động của lãi suất trên thị trường. (Theo Giáo trình Tiền tệ Ngân hàng, NXB Thống kê)
Các nhân tố làm dịch chuyển đường cầu tiền
Thu nhập
Thu nhập tăng, làm tăng nhu cầu nắm giữ tiền để giao dịch và làm nơi cất trữ giá trị, do đó làm tăng cầu tiền, làm dịch chuyển đường cầu tiền sang phải.
Thu nhập giảm, làm giảm nhu cầu nắm giữ tiền để giao dịch và giảm nhu cầu cất trữ giá trị, do đó làm giảm cầu tiền, làm dịch chuyển đường cầu tiền sang trái.
Mức giá cả
Dân chúng chỉ quan tâm đến số dư tiền thực, tức số lượng hàng hóa và dịch vụ có thể mua được là bao nhiêu thừ một lượng tiền danh nghĩa nhất định. Khi mức giá cả tăng, làm cho tiền danh nghĩa giảm giá trị, tức khối lượng hàng hóa và dịch vụ mua được sẽ giảm.
Để duy trì số dư tiền thực như trước khi giá cả tăng, dân chúng sẽ phải nắm giữ nhiều hơn lượng tiền danh nghĩa, làm cầu tiền tăng, làm dịch chuyển đường cầu sang phải, khiến lãi suất thị trường tăng.
Các nhân tố làm dịch chuyển đường cung tiền
Cung tiền trong nền kinh tế hiện nay phần lớn chịu sự tác động bởi chính sách tiền tệ của các Ngân hàng Trung ương. Do đó việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ sẽ làm thay đổi cung tiền. Một sự tăng lên của lượng tiền cung ứng do Ngân hàng Trung ương tạo ra, làm dịch chuyển đường cung tiền sang phải, làm cho lãi suất thị trường giảm và ngược lại.
Cung tiền (đặc biệt là tiền cơ sở MB) thay đổi, ngoài những hoạt động nhằm thực thi mục tiêu của chính sách tiền tệ, còn chịu ảnh hưởng bởi mức độ phụ thuộc của Ngân hàng Trung ương vào chính phủ của Ngân hàng Trung ương và chế độ tỉ giá hối đoái của nước đó.
Nếu sự phụ thuộc của Ngân hàng Trung ương vào chính phủ cao thì tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài có thể sẽ tạo ra sức ép khiến Ngân hàng Trung ương phải phát hành tiền mua các chứng khoán chính phủ vào để tài trợ cho thâm hụt ngân sách dẫn đến tăng cung tiền.
Thêm vào đó, một chế độ tỉ giá hối đoái cố định đòi hỏi sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương vào thị trường ngoại hối thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ, và do vậy cũng sẽ ảnh hưởng đến tiền cơ sở và do đó là ảnh hưởng đến cung tiền. (Theo Giáo trình Tiền tệ Ngân hàng, NXB Thống kê)