Chính sách đầu tư nước ngoài (Foreign Investment Policy) là gì? Phân loại
Chính sách đầu tư nước ngoài
Khái niệm
Chính sách đầu tư nước ngoài trong tiếng Anh được gọi là Foreign Investment Policy.
Chính sách đầu tư nước ngoài bao gồm một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, công cụ và phương pháp mà Nhà nước áp dụng để quản lí các hoạt động đầu tư quốc tế của quốc gia (bao gồm đầu tư ra nước ngoài và thu hút đầu tư nước ngoài) nhằm đến những mục tiêu nhất định.
Chính sách đầu tư nước ngoài là chính sách về những khoản đầu tư trực tiếp vào kinh doanh, sản xuất ở một đất nước bởi một công ty hay một cá nhân ở một quốc gia khác. Việc đầu tư có thể dưới hình thức mua lại hoặc mở rộng hoạt động của một công ty ở một quốc gia khác. (Theo Policybazaar)
Phân loại chính sách đầu tư nước ngoài
- Theo dòng chảy của vốn đầu tư, chính sách đầu tư nước ngoài được phân thành chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và chính sách đầu tư ra nước ngoài.
Đối với mỗi quốc gia, việc thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư ra nước ngaoif có mối quan hệ mật thiết với nhau. Theo thời gian, một nước đang phát triển sẽ có nhu cầu về vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước lớn hơn ở giai đoạn đầu, sau đó khi các doanh nghiệp trong nước đã tích luỹ đủ vốn thì họ sẽ có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài.
- Theo tính chất, chính sách đầu tư nước ngoài có thể được chia thành chính sách đầu tư tự do và chính sách đầu tư hạn chế.
- Theo nội dung, chính sách đầu tư nước ngoài có thể được phân thành:
+ Chính sách mặt hàng (ngành và lĩnh vực đầu tư)
+ Chính sách thị trường (đối tác và địa bàn đầu tư)
+ Chính sách hỗ trợ đầu tư
Vai trò của chính sách đầu tư quốc tế
- Khuyến khích hoặc hạn chế dòng vốn đầu tư vào trong nước hoặc dòng vốn đầu tư ra nước ngoài
- Bảo vệ thị trường trong nước trước sự phát triển mạnh mẽ của đầu tư nước ngoài
- Điều chỉnh mối quan hệ giữa các loại hình đầu tư, các hình thức đầu tư cụ thể, cũng như mối quan hệ giữa các ngành và các vùng lãnh thổ trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Chính sách Kinh tế - Xã hội, TS. Nguyễn Thị Lệ Thuý, TS. Bùi Thị Hồng Việt, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Tài chính, 2012)