|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kiến thức Kinh tế

Mô hình CAEL trong phát hiện rủi ro tài chính tại các ngân hàng thương mại là gì?

14:37 | 10/06/2020
Chia sẻ
Mô hình CAEL là mô hình được phát triển dựa trên mô hình CAMELS nhằm giúp cho các tổ chức tài chính Việt Nam phát hiện sớm các loại rủi ro tài chính tiềm tàng.
Mô hình CAEL trong phát hiện rủi ro tài chính tại các ngân hàng thương mại là gì? - Ảnh 1.

Hình minh họa (Nguồn: Tuko)

Mô hình CAEL

Khái niệm

Mô hình CAEL trong tiếng Anh gọi là: CAEL model.

Mô hình CAEL là mô hình cảnh báo rủi ro ngân hàng được xây dựng dựa trên 4 nhân tố chính sau:

- Mức độ an toàn vốn - Capital Adequacy (C)

Mức độ an toàn vốn thể hiện số vốn tự có để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng càng chấp nhận nhiều rủi ro thì càng đòi hỏi phải có nhiều vốn tự có để hỗ trợ hoạt động của ngân hàng và bù đắp tổn thất tiềm năng liên quan đến mức độ rủi ro cao hơn.

Tỉ lệ an toàn vốn được tính theo tỉ lệ phần trăm của tổng vốn cấp I và vốn cấp II so với tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng.

CAR = [(Vốn cấp I + Vốn cấp II)/ (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%

Vốn cấp 1: Còn gọi là vốn nòng cốt, về cơ bản bao gồm vốn điều lệ cộng với lợi nhuận không chia cộng với các quĩ dự trữ được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng như quĩ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quĩ dự phòng tài chính và quĩ đầu tư phát triển.

Tỉ lệ vốn cấp 1= Tiền vốn nòng cốt của 1 ngân hàng/ Tổng tài sản rủi ro.

(Những tài sản như tiền mặt, tiền xu thường có tỉ lệ rủi ro là 0, trong khi các khoản vay không có bảo đảm có tỉ lệ rủi ro là 100%).

Vốn cấp 2: Là thước đo tiềm lực tài chính của một ngân hàng liên quan đến các dạng nguồn lực tài chính.

Vốn cấp 2 về cơ bản bao gồm: phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức tín dụng; nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (bao gồm trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ thứ cấp nhất định) và dự phòng chung cho rủi ro tín dụng.

Bằng tỉ lệ này, người ta có thể xác định được khả năng của ngân hàng thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các loại rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành.

Chính vì lý do trên, các nhà quản lí ngành Ngân hàng các nước luôn xác định rõ và giám sát các ngân hàng phải duy trì một tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, ở Việt Nam theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 tỉ lệ này được qui định là 9%. Theo chuẩn mực Basel II mà các hệ thống ngân hàng trên thế giới áp dụng phổ biến là 8%.

- Chất lượng tài sản có - Asset Quality (A)

Chất lượng tài sản có là nguyên nhân cơ bản dẫn đến các vụ đổ vỡ ngân hàng. Thông thường điều này xuất phát từ việc quản lí không đầy đủ trong chính sách cho vay từ trước đến nay.

Nếu thị trường biết rằng chất lượng tài sản kém, sẽ tạo áp lực lên trạng thái nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng, và điều này có thể dẫn đến khủng hoảng thanh khoản, hoặc dẫn đến tình trạng đổ xô đi rút tiền ở ngân hàng.

Tài sản có = Tài sản có sinh lời + Tài sản có không sinh lời

Tài sản có sinh lời là những tài sản đem lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng, đồng thời cũng là những tài sản chứa đựng nhiều rủi ro. Những tài sản này bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính, các khoản đầu tư vào chứng khoán, góp vốn liên doanh, liên kết..., trong đó chiếm tỉ trọng cao nhất là các khoản cho vay.

Bên cạnh chất lượng hoạt động tín dụng, chất lượng tài sản của ngân hàng còn thể hiện ở các tài sản có khác như danh mục đầu tư chứng khoán, tài sản bằng ngoại tệ, vàng bạc, đá quí.

Chất lượng những tài sản này thường thể hiện ở cơ cấu và trạng thái ngoại hối, chất lượng và trạng thái của danh mục đầu tư. Những khoản mục này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh lời và tính thanh khoản của một ngân hàng.

- Lợi nhuận - Earnings (E)

Lợi nhuận là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá công tác quản lí và các hoạt động chiến lược của nhà quản lí thành công hay thất bại.

Lợi nhuận sẽ dẫn đến hình thành thêm vốn, đây là điều hết sức cần thiết để thu hút thêm vốn và sự hỗ trợ phát triển trong tương lai từ phía các nhà đầu tư. Lợi nhuận còn cần thiết để bù đắp các khoản cho vay bị tổn thất và trích dự phòng đầy đủ. Bốn nguồn thu nhập chính của ngân hàng là:

+ Thu nhập từ lãi

+ Thu nhập từ lệ phí, hoa hồng

+ Thu nhập từ kinh doanh mua bán

+ Thu nhập khác

- Thanh khoản - Liquidity (L)

Có hai nguyên nhân giải thích tại sao thanh khoản lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với ngân hàng.

Thứ nhất, cần phải có thanh khoản để đáp ứng yêu cầu vay mới mà không cần phải thu hồi những khoản cho vay đang trong hạn hoặc thanh lí các khoản đầu tư có kì hạn.

Thứ hai, cần có thanh khoản để đáp ứng tất cả các biến động hàng ngày hay theo mùa vụ về nhu cầu rút tiền một cách kịp thời và có trật tự. Do ngân hàng thường xuyên huy động tiền gửi ngắn hạn (với lãi suất thấp) và cho vay số tiền đó với thời hạn dài hạn (lãi suất cao hơn) nên ngân hàng về cơ bản luôn có nhu cầu thanh khoản rất lớn.

(Tài liệu tham khảo: Mô hình cael trong phát hiện rủi ro tài chính tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, TS. Nguyễn Văn Huân, ThS. Đỗ Năng Thắng, Tạp chí Công thương, 2017)

Tuyết Nhi