|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kiến thức Kinh tế

Kinh tế học Keynes (Keynesian Economics) là gì? Tác động của kinh tế học Keynes tới các chính sách

10:22 | 16/10/2019
Chia sẻ
Kinh tế học Keynes (tiếng Anh: Keynesian Economics) là một lí thuyết kinh tế về tổng chi tiêu trong nền kinh tế và những ảnh hưởng của nó đến sản lượng và lạm phát.
1ac68f59f24ea82ccf43b049f9d45a9e

Hình minh họa (Nguồn: i.pinimg.com)

Kinh tế học Keynes (Keynesian Economics)

Khái niệm

Kinh tế học Keynes trong tiếng Anh là Keynesian Economics.

Kinh tế học Keynes là một lí thuyết kinh tế về tổng chi tiêu trong nền kinh tế và những ảnh hưởng của nó đến sản lượng và lạm phát. John Maynard Keynes trong những năm 1930 trong nỗ lực tìm hiểu về cuộc Đại khủng hoảng. Keynes tán thành việc tăng chi tiêu của chính phủ và giảm thuế để kích thích nhu cầu và kéo nền kinh tế thế giới thoát khỏi suy thoái.

Sau đó, kinh tế học Keynes đã được sử dụng để đưa ra định nghĩa rằng hiệu quả kinh tế tối ưu có thể đạt được và sự suy thoái kinh tế được ngăn chặn bằng cách đến tác động đến tổng cầu thông qua chính sách của chính phủ nhằm ổn định hoạt động và can thiệp vào nền kinh tế. Kinh tế học Keynes được coi là một lí thuyết "phía cầu" tập trung vào những thay đổi ngắn hạn trong nền kinh tế.

Tác động của kinh tế học Keynes tới các chính sách kinh tế

Tác động tới chính sách tài khóa

Hiệu ứng số nhân là một trong những thành phần chính của chính sách tài khóa ngược chu kì của Keynes. Theo lí thuyết về kích thích tài khóa của Keynes, việc bơm chi tiêu chính phủ cuối cùng sẽ dẫn đến hoạt động kinh doanh bổ sung và thậm chí chi tiêu nhiều hơn.

Lí thuyết này chỉ ra rằng việc chi tiêu làm tăng tổng sản lượng và tạo thêm thu nhập. Nếu người lao động sẵn sàng chi thêm thu nhập của họ kết quả tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có thể còn lớn hơn lượng tiền kích thích ban đầu của chính phủ.

Độ lớn của hệ số nhân Keynes có liên quan trực tiếp đến xu hướng tiêu dùng cận biên. Chi tiêu của một người tiêu dùng trở thành thu nhập cho một người khác. Thu nhập của người này sau đó chuyển thành chi tiêu và cứ thế chu kì tiếp tục. Keynes và những người ủng hộ ông tin rằng các cá nhân nên tiết kiệm ít hơn và chi tiêu nhiều hơn để nâng cao xu hướng tiêu dùng cận biên của họ nhằm tạo ra việc làm đầy đủ và tăng trưởng kinh tế.

Tác động tới chính sách tiền tệ

Kinh tế học Keynes tập trung vào các giải pháp về phía cầu cho thời kì suy thoái. Sự can thiệp của chính phủ vào sự phát triển kinh tế là một vũ khí quan trọng của kinh tế học Keynes trong cuộc chiến chống lại nạn thất nghiệp, thiếu việc làm và nhu cầu tiêu dùng thấp. Sự nhấn mạnh vào việc can thiệp trực tiếp của chính phủ vào nền kinh tế đặt các nhà kinh tế học theo chủ nghĩa Keynes trong tình trạng bất hòa với những tranh luận về giới hạn của chính phủ khi tác động vào thị trường.

Giảm lãi suất là một cách chính phủ có thể can thiệp đúng nghĩa vào các hệ thống kinh tế, từ đó tạo ra nhu cầu kinh tế tích cực. Các nhà kinh tế theo chủ nghĩa của Keynes cho rằng kinh tế không tự ổn định một cách nhanh chóng mà cần có sự can thiệp tích cực làm tăng nhu cầu trong ngắn hạn trong nền kinh tế. Theo họ, tiền lương và việc làm đáp ứng nhu cầu của thị trường chậm hơn nên đòi hỏi phải có sự can thiệp của chính phủ để chúng đi đúng hướng.

Giá cả cũng không phản ứng nhanh nên chỉ có sự can thiệp của chính sách tiền tệ thì chúng mới thay đổi dần dần. Bởi sự thay đổi giá cả chậm chạp này mới khiến cho chính sách tiền tệ có khả năng sử dụng cung tiền như một công cụ để thay đổi lãi suất nhằm khuyến khích đi vay và cho vay. 

Tăng cầu trong ngắn hạn bắt đầu bằng việc cắt giảm lãi suất tái tạo hệ thống kinh tế và khôi phục việc làm và nhu cầu dịch vụ. Các hoạt động kinh tế mới sau đó tiếp tục được duy trì sức tăng trưởng và việc làm.

Không có sự can thiệp, các nhà lí thuyết của Keynes tin rằng, chu kì này bị gián đoạn và tăng trưởng thị trường trở nên bất ổn hơn và dễ bị biến động quá mức. Giữ lãi suất thấp là một nỗ lực để kích thích chu kì kinh tế bằng cách khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân vay thêm tiền. 

Khi cho vay được khuyến khích, các doanh nghiệp và cá nhân thường tăng chi tiêu của họ. Chi tiêu mới này kích thích nền kinh tế. Tuy nhiên, việc giảm lãi suất không phải lúc nào cũng trực tiếp dẫn đến cải thiện kinh tế.

(Tài liệu tham khảo: investopedia.com)

TH