Kế toán nhận thức (Mental Accounting) và ảnh hưởng trong đầu tư
Hình minh hoạ. Nguồn: thebehavioursagency
Kế toán nhận thức
Khái niệm
Kế toán nhận thức trong tiếng Anh là Mental Accounting.
Kế toán nhận thức đề cập đến các giá trị khác nhau mà mọi người gán cho tiền, dựa trên các tiêu chí chủ quan và thường dẫn đến kết quả bất lợi. Kế toán nhận thức là một khái niệm trong lĩnh vực kinh tế học hành vi. Kế toán nhận thức cho rằng các cá nhân phân loại tiền thành các nhóm khác nhau và do đó dễ đưa ra quyết định phi lí trong hành vi chi tiêu và đầu tư của họ.
Ví dụ về kế toán nhận thức
Các cá nhân không nhận ra cách suy nghĩ theo kế toán nhận thức rất phi logic. Chẳng hạn, một số người cất tiền ở nhà để dành cho một kì nghỉ hoặc mua một ngôi nhà mới, đồng thời lại có một khoản nợ khá lớn trong thẻ tín dụng.
Họ có thiên hướng đối xử với tiền trong khoản tiết kiệm này khác với khoản tiền đang được sử dụng để trả nợ, dù thực tế là việc chia tiền thành hai khoản là tiết kiệm và trả nợ chỉ khiến kéo dài thời gian trả nợ, dẫn đến lãi phải trả tăng lên.
Khi phân tích sâu hơn, việc duy trì một khoản tiết kiệm kiếm được ít hoặc không có lãi trong khi đồng thời giữ nợ thẻ tín dụng với lãi suất sao là không có lí và thậm chí là gây bất lợi.
Trong nhiều trường hợp, tiền lãi phải trả cho khoản nợ này sẽ ăn mòn bất kì khoản lãi nào thể nhận được từ khoản tiết kiệm. Các cá nhân trong tình huống này tốt nhất nên sử dụng số tiền họ đã cất trong khoản tiết kiệm để trả hết khoản nợ đắt đỏ trước khi chúng tăng lên.
Kế toán nhận thức trong đầu tư
Mọi người cũng có xu hướng sử dụng các định kiến trong kế toán nhận thức trong đầu tư. Chẳng hạn, nhiều nhà đầu tư phân chia tài sản của họ thành danh mục đầu tư an toàn và danh mục đầu cơ. Họ cho rằng làm vậy giúp ngăn chặn việc thua lỗ từ khoản đầu cơ gây ảnh hưởng xấu đến đến tổng danh mục đầu tư.
Trong trường hợp này, sự khác biệt về tài sản ròng bằng không, bất kể nhà đầu tư nắm giữ nhiều danh mục đầu tư hay một danh mục đầu tư lớn hơn. Sự khác biệt duy nhất trong hai tình huống này là lượng thời gian và công sức mà nhà đầu tư bỏ ra để chia tách các danh mục đầu tư .
Một ví dụ khác về kế toán nhận thức trong đầu tư: Một nhà đầu tư sở hữu hai cổ phiếu: một cổ phiếu có lãi chưa thực hiện, và một là cổ phiếu có lỗ chưa thực hiện. Nhà đầu tư cần tiền mặt và phải bán một trong các cổ phiếu.
Kế toán nhận thức thiên về lựa chọn bán cổ phiếu có lãi mặc dù thường thì bán cổ phiếu có lỗ thường mới là quyết định hợp lí, do lợi ích thuế nhận được khi hiện thực hoá khoản lỗ cũng như thực tế là cổ phiếu đang thua lỗ là một khoản đầu tư kém hơn.
Nhiều nhà đầu tư không thể chịu được việc ghi nhận một khoản lỗ, vì vậy nhà đầu tư bán người cổ phiếu đang có lãi đi để tránh điều đó. Đây là hiệu ứng ác cảm mất mát, có thể khiến các nhà đầu tư đưa ra các quyết định sai lầm.
(Theo investopedia.com)