Hiệu quả dạng trung bình (Semi-Strong Form Efficiency) là gì?
Hiệu quả dạng trung bình (Semi-Strong Form Efficiency)
Định nghĩa
Hiệu quả dạng trung bình trong tiếng Anh là Semi-Strong Form Efficiency.
Thị trường được cho là hiệu quả dạng trung bình khi giá cả của chứng khoán phản ánh các thông tin công khai trên thị trường, bao gồm các thông tin quá khứ về giá chứng khoán và các thông tin công khai như bản cáo bạch của tổ chức phát hành.
Đặc trưng
- Thị trường hiệu quả dạng trung bình bao trùm lên giả thuyết hiệu quả dạng yếu vì tất cả các thông tin trên thị trường đều phải được xem xét công khai dựa trên giả thuyết thị trường hiệu quả dạng yếu như giá cổ phiếu, tỉ suất lợi tức và khối lượng giao dịch.
- Thông tin công khai bao gồm các thông tin phi thị trường như: các thông báo về thu nhập và cổ tức, P/E, D/P, P/B, chia tách cổ phiếu, các thông tin về kinh tế chính trị.
- Giả thuyết này hàm ý các nhà đầu tư khi ra quyết định dựa trên các thông tin mới sau khi công bố sẽ không thu được lợi nhuận cao hơn mức trung bình bởi giá chứng khoán đã phản ứng ngay lập tức mọi thông tin công khai.
- Khi các thông tin trong quá khứ là tổng hợp của toàn bộ thông tin công khai, nếu thị trường đạt mức hiệu quả trung bình, nó cũng đạt mức hiệu quả yếu. Tuy nhiên, thị trường có thể đạt mức hiệu quả yếu khi chưa đạt mức hiệu quả trung bình.
- Điều này ám chỉ rằng các nhà đầu tư có thể thu được lợi nhuận bất thường dựa trên những thông tin công khai. Thị trường càng phản ánh nhanh với những thông tin này, lợi nhuận nhà đầu tư thu về càng ít.
Kiểm định thị trường hiệu quả dạng trung bình
EMH dạng trung bình cho rằng: Giá cả chứng khoán hiện tại đang phản ánh đầy đủ và tức thời tất cả các thông tin sẵn có. Điều này có nghĩa là khi có một thông tin mới được công bố, ngay lập tức thông tin đó sẽ được tính vào giá chứng khoán.
Các nghiên cứu kiểm định EMH dạng trung bình có thể được chia thành hai nhóm sau:
(1) Các nghiên cứu nhằm dự đoán tỉ suất lợi tức tương lai bằng việc sử dụng những thông tin công khai trừ các thông tin thị trường thuần túy như mức giá và khối lượng giao dịch đã được xem xét trong kiểm định dạng yếu.
- Những nghiên cứu này có thể bao gồm phân tích chuỗi thời gian của lợi nhuận hoặc phân phối chéo (cross section distribution) lợi nhuận của các cổ phiếu riêng lẻ.
- Những người ủng hộ EMH cho rằng không thể dự đoán lợi nhuận trong tương lai bằng việc sử dụng mức lợi nhuận trong quá khứ hoặc dự đoán sự phân phối chéo lợi nhuận trong tương lai (ví dụ, các tứ phân vị hoặc thập phân vị cao nhất của lợi nhuận) bằng việc sử dụng các thông tin công khai.
(2) Các nghiên cứu sự kiện khảo sát xem các cổ phiếu điều chỉnh nhanh như thế nào đối với các sự kiện kinh tế cụ thể quan trọng.
- Một cách tiếp cận tất yếu là kiểm tra xem có thể đầu tư vào chứng khoán và nhận một mức tỉ suất lợi tức cao bất thường sau khi một sự kiện quan trọng (như thu nhập, chia tách cổ phiếu, các số liệu kinh tế chủ yếu) được thông báo công khai hay không.
- Một lần nữa, những người ủng hộ EMH sẽ kì vọng giá chứng khoán điều chỉnh nhanh chóng khiến cho nhà đầu tư không thể nhận được mức lợi nhuận cao bằng việc đầu tư sau các thông báo công khai và trả mức chi phí giao dịch thông thường.
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Phân tích đầu tư chứng khoán, NXB Đại học Kinh tế quốc dân; Investopedia)