Dân số trong độ tuổi lao động (Working-Age Population) là gì?
Dân số trong độ tuổi lao động
Khái niệm
Dân số trong độ tuổi lao động trong tiếng Anh là Working-Age Population.
Dân số trong độ tuổi lao động là tổng dân số trong một khu vực được coi là có khả năng và có thể làm việc, dựa trên số người trong độ tuổi được xác định trước. Thước đo dân số trong độ tuổi lao động được sử dụng để đưa ra ước tính về tổng số lao động tiềm năng trong một nền kinh tế.
Số người trong một độ tuổi cụ thể sẽ xác định dân số trong độ tuổi lao động. Con số này là số lượng người lao động có sẵn trong một nền kinh tế, một quốc gia hoặc những khu vực cụ thể khác.
Thước đo này không phân biệt giữa những người có việc làm ổn định và những người đang tìm kiếm việc làm. Thước đo dân số trong độ tuổi lao động được thiết kế để phân tích có bao nhiêu người có khả năng và sẵn sàng làm việc.
Có những ngoại lệ trong nhóm dân số trong độ tuổi lao động mà thước đo này không xét đến. Bao gồm những người đang làm việc tích cực nhưng nằm ngoài độ tuổi được chỉ định. Ví dụ, một số người sẽ tiếp tục làm việc kể cả khi quá độ tuổi nghỉ hưu tiêu chuẩn. Ngoài ra, những cá nhân nằm trong độ tuổi làm việc nhưng không thể làm việc do khuyết tật hoặc bệnh tật, cũng thuộc về ngoại lệ.
Tác động đến nhân khẩu học trong khu vực
Khi nhân khẩu học của một khu vực thay đổi, dân số trong độ tuổi lao động của một nền kinh tế sẽ thay đổi. Những thay đổi đáng kể có khả năng tác động đáng kể đến nền kinh tế. Một khu vực có nhiều người có độ tuổi khá lớn trong độ tuổi lao động và chỉ một số ít thiếu niên sắp gia nhập lực lượng lao động, có thể không thể lấp đầy được việc làm.
Mặt khác, một khu vực có nhiều thanh, thiếu niên bước vào độ tuổi lao động, và ít người ở độ tuổi 50 và 60, có thể sớm gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt về việc làm. Ngoài ra, một khu vực có số lượng người không cân xứng, nằm ngoài dân số trong độ tuổi lao động, sẽ phải dựa vào phần dân số nhỏ hơn để tạo ra thu nhập cho toàn khu vực.
Lí tưởng nhất là khi, dân số trong độ tuổi lao động của một nền kinh tế địa phương nên có một dòng người ổn định cả vào và ra. Cũng như sự cân bằng lành mạnh giữa những người trong độ tuổi xác định và những người nằm ngoài độ tuổi đó.
Nếu một khu vực có dân số trong độ tuổi lao động đang suy giảm hoặc không đủ để đáp ứng nhu cầu việc làm trong khu vực, khu vực đó sẽ gặp khó khăn trong việc thu hút các ngành công nghiệp mới hoặc thuyết phục các ngành công nghiệp hiện tại mở rộng thêm.
Các công ty ít có khả năng mở chi nhánh hoặc nhà máy mới ở khu vực khó khăn trong việc tìm người lao động. Mặt khác, các khu vực có dân số trong độ tuổi lao động lớn hơn hoặc đang tăng, có thể hấp dẫn hơn đối với các công ty đang tìm cách mở rộng hoặc tái định vị.
(Theo Investopedia)