Quản lí nhà nước về du lịch (State management on tourism) là gì?
Hình minh hoạ (Nguồn: apec)
Quản lí nhà nước về du lịch
Khái niệm
Quản lí nhà nước về du lịch trong tiếng Anh được gọi là State management on tourism.
Quản lí nhà nước về du lịch là làm chức năng quản lí vĩ mô về du lịch, không làm chức năng chủ quan, không làm chức năng kinh doanh thay các doanh nghiệp du lịch.
Việc quản lí đó được thông qua các công vụ quản lí vĩ mô, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động trên lĩnh vực kinh tế du lịch.
Quản lí nhà nước về du lịch là nhằm đưa du lịch phát triển theo định hướng chung của tiến trình phát triển của đất nước.
Các chức năng của quản lí nhà nước về du lịch
Chúng ta có thể hệ thống một cách tương đối các chức năng của quản lí nhà nước về du lịch thành các chức năng như sau:
- Ban hành các văn bản pháp luật về du lịch, xây dựng và thực hiện hàng hoạt các chính sách kinh tế lớn để phát triển du lịch và xây dựng một cơ chế có hiệu lực để đưa chính sách và thể chế quản lí vào hoạt động kinh doanh du lịch.
- Tổ chức hướng dẫn thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các văn bản luật, các qui chế, các chế độ, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kĩ thuật, qui trình, qui phạm trong hoạt động du lịch.
Về vấn đề này cơ quan quản lí du lịch ở nước ta có nhiều hoạt động đáng ghi nhận. Song, như báo cáo tổng kết của ngành du lịch Việt Nam thì mặt này còn nhiều hạn chế.
- Tổ chức tuyên truyền, quảng cáo du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học; đào tạo bồi dưỡng cán bộ; hợp tác quốc tế; bảo vệ môi trường du lịch (đang là những yêu cầu cấp thiết đối với việc phát triển du lịch ở nước ta trong giai đoạn hiện nay).
- Giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lí các vi phạm luật trong hoạt động du lịch; thúc đẩy du lịch nước ta theo định hướng chung của đất nước; hạn chế, đi đến xoá bỏ các hiện tượng không lành mạnh, mặt trái của du lịch mà nhiều nước đã mắc phải qua hoạt động du lịch (mại dâm, văn hoá đồi truỵ, nghiện hút…).
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế Du lịch, GS. TS Nguyễn Văn Đính, 2006, NXB Lao động - Xã hội)