|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kiến thức Kinh tế

Giới hạn 0 (Zero-Bound) là gì? Nội dung về giới hạn 0

23:24 | 02/04/2020
Chia sẻ
Giới hạn 0 (tiếng Anh: Zero-Bound) là một công cụ chính sách tiền tệ mở rộng, trong đó một ngân hàng trung ương hạ lãi suất ngắn hạn xuống mức 0, nếu cần, để kích thích nền kinh tế.
Giới hạn 0 (Zero-Bound) là gì? - Ảnh 1.

Hình minh họa

Giới hạn 0 (Zero-Bound)

Khái niệm

Giới hạn 0 trong tiếng Anh là Zero-Bound.

Giới hạn 0 là một công cụ chính sách tiền tệ mở rộng, trong đó một ngân hàng trung ương hạ lãi suất ngắn hạn xuống mức 0, nếu cần, để kích thích nền kinh tế. Một ngân hàng trung ương buộc phải ban hành chính sách này cũng phải theo đuổi các phương pháp khuyến khích khác, thường là trái với thông lệ, để hồi sinh nền kinh tế.

Nội dung về giới hạn 0

Giới hạn 0 đề cập đến mức thấp nhất mà lãi suất có thể giảm xuống. Có những trường hợp lãi suất âm đã được thực hiện trong khoảng thời gian bình thường. Thụy Sỹ là một ví dụ; tính đến giữa năm 2019, lãi suất mục tiêu của quốc gia này là -0,75%. Nhật Bản đã áp dụng chính sách tương tự, trong phạm vi mục tiêu giữa năm 2019 là -0,1%.

Một phương tiện chính sử dụng trong chính sách tiền tệ của một ngân hàng trung ương là lãi suất. Ngân hàng sẽ điều chỉnh lãi suất để kích thích nền kinh tế trì trệ hoặc làm giảm tốc độ tăng trưởng quá nóng.

Giới hạn 0 là giới hạn thấp hơn mà tỉ lệ có thể được cắt giảm, nhưng không còn như vậy nữa. Khi mức này đạt được, và nền kinh tế vẫn còn kém, thì ngân hàng trung ương không thể khuyến khích thông qua lãi suất. Các nhà kinh tế sử dụng bẫy thanh khoản hạn để mô tả kịch bản này.

Khi gặp bẫy thanh khoản, các thủ tục thay thế cho kích thích tiền tệ thường trở nên cần thiết. Thông thường, sẽ tốt hơn nếu lãi suất không di chuyển vào miền âm, nghĩa là một khi lãi suất bằng 0 hoặc gần bằng 0, chẳng hạn 0,01%, chính sách tiền tệ phải được thay đổi để tiếp tục ổn định hoặc kích thích nền kinh tế.

Công cụ chính sách tiền tệ thay thế quen thuộc nhất là nới lỏng định lượng. Đây là nơi một ngân hàng trung ương tham gia vào một chương trình mua tài sản quy mô lớn, thường là trái phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ khác. Điều này không chỉ giữ lãi suất ngắn hạn ở mức thấp mà còn đẩy lãi suất dài hạn xuống, điều này càng khuyến khích việc vay mượn.

Kể từ cuộc Đại suy thoái năm 2008 và 2009, một số ngân hàng trung ương đã đẩy các giới hạn về giới hạn 0 dưới con số này và thực hiện lãi suất âm. Khi nền kinh tế toàn cầu lao dốc, các ngân hàng trung ương đã cắt giảm lãi suất để thúc đẩy tăng trưởng và chi tiêu. Tuy nhiên, khi sự phục hồi vẫn còn chậm, lãi suất của các ngân hàng trung ương bắt đầu di chuyển sang miền âm.

Thụy Điển là quốc gia đầu tiên có lãi suất dưới mức 0% vào năm 2009, Riksbank đã cắt lãi suất repo xuống 0,25%, điều này đã đẩy lãi suất huy động lên -0,25%. Kể từ đó, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) và một số ít ngân hàng khác cos những động thái để giảm lãi suất như vậy.

(Tài liệu tham khảo: investopedia.com)

Tường Vy