Cổ tức bằng cổ phiếu (Stock Dividend) là gì?
Hình minh họa. Nguồn: thebluediamondgallery
Cổ tức bằng cổ phiếu (Stock Dividend)
Định nghĩa
Cổ tức bằng cổ phiếu trong tiếng Anh gọi là Stock Dividend. Cổ tức bằng cổ phiếu là khoản lợi nhuận sau thuế được biểu hiện dưới dạng cổ phiếu mà công ty phát hành mới để chia thêm cho các cổ đông hiện hành.
Các thuật ngữ liên quan
Cổ tức (Dividend) là một phần lợi nhuận sau thuế của công ty dành trả cho các cổ đông hiện hành.
Chính sách cổ tức (Dividend Policy) thể hiện quyết định giữa việc trả lợi nhuận cho cổ đông so với việc giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư.
Bản chất
- Trả cổ tức bằng cổ phiếu giống như việc chia tách cổ phiếu, hay cũng giống như việc chia miếng bánh thành nhiều phần nhỏ hơn mà không làm ảnh hưởng đến tỉ lệ sở hữu của các cổ đông hiện hành.
- Khi thực hiện trả cổ tức bằng cổ phiếu, công ty sẽ phát hành thêm một lượng cổ phiếu mới và phân chia cho các cổ đông hiện hành theo tỉ lệ cổ phần mà họ đang nắm giữ.
Ví dụ: Công ty trả cổ tức bằng cổ phiếu với tỉ lệ 5% thì cổ đông nào đang nắm giữ 100 cổ phần thì sẽ được nhận thêm 5 cổ phần mới mà không phải trả thêm tiền. Như vậy, thay vì nhận cổ tức bằng tiền thì cổ đông nhận được thêm một số cổ phiếu mới mà không phải trả thêm tiền.
Ưu điểm
- Trả cổ tức bằng cổ phiếu giúp công ty có thêm vốn nội sinh để đầu tư tăng trưởng.
- Trả cổ tức bằng cổ phiếu giúp cho cổ đông hạn chế bị chia sẻ quyền kiểm soát do hạn chế phải phát hành thêm cổ phần thường mới để huy động vốn thực hiện các cơ hội đầu tư.
- Trả cổ tức bằng cổ phiếu giúp công ty tiết kiệm chi phí phát hành để huy động vốn.
Do được tài trợ bằng nguồn lợi nhuận để lại nên công ty có thể không phải phát hành cổ phần thường mới ra công chúng để huy động, khi đó sẽ không phải tốn kém chi phí cho đợt phát hành. Điều này khiến cho chi phí sử dụng vốn từ lợi nhuận sẽ thấp hơn chi phí sử dụng vốn cổ phần thường mới.
- Trả cổ tức bằng cổ phiếu còn giúp cho công ty có thể tránh được tác động tiêu cực của thị trường đến giá cổ phiếu khi công ty bị khan hiếm nguồn tiền hay hoạt động kém hiệu quả phải cắt giảm cổ tức tiền mặt.
- Đây là biện pháp hoãn thuế cho cổ đông vì cổ đông chỉ phải nộp thuế thu nhập cá nhân khi nào hiện thực hóa thu nhập được chia, tức là khi cổ đông đem bán cổ phần được chia cổ tức.
- So với không trả cổ tức thì trả cổ tức bằng cổ phiếu giúp cho cổ phiếu của công ty có tính thanh khoản cao hơn.
Hạn chế
- Trả cổ tức bằng cổ phiếu có thể sẽ tác động làm cho giá cổ phiếu bị sụt giảm nếu như công ty thiếu những cơ hội đầu tư hiệu quả. Vì khi đó, nó sẽ không tạo ra sự tăng trưởng thu nhập và cổ tức của cổ đông trong tương lai, trong khi đó thu nhập thực tế hiện tại của cổ đông bị sụt giảm.
- Trả cổ tức bằng cổ phiếu làm cho thu nhập trên mỗi cổ phần ở hiện tại bị giảm xuống do số lượng cổ phần tăng lên, và có thể nó sẽ kéo theo sự sụt giảm giá cổ phiếu trên thị trường do cung cổ phiếu tăng.
Đặc biệt với những công ty cổ phần mà hiệu quả kinh doanh không cao thì việc lạm dụng quá mức hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu sẽ làm cho thu nhập trên mỗi cổ phần giảm dẫn đến giá cổ phiếu bị giảm xuống và ảnh hưởng trực tiếp làm sụt giảm lợi ích của cổ đông hiện hành.
- Việc trả cổ tức bằng cổ phiếu sẽ phức tạp hơn về thủ tục và cách thức tổ chức thực hiện cho công ty cổ phần.
Do việc trả cổ tức bằng cổ phiếu ảnh hưởng đến lợi ích của nhà đầu tư nên Nhà nước sẽ có những qui định pháp lí ràng buộc và kiểm soát việc trả cổ tức bằng cổ phiếu của công ty.
- Công ty muốn giữ lại lợi nhuận tái đầu tư sẽ có hai cách thực hiện đó là: trả cổ tức bằng cổ phiếu và giữ lại lợi nhuận trên tài khoản lợi nhuận chưa phân phối.
Tuy nhiên, nếu trả cổ tức bằng cổ phiếu thì số lợi nhuận dùng để chi trả phải vốn hóa thành vốn cổ phần, do đó trong trường hợp cần thiết công ty không thể chia cổ tức cho cổ đông từ số lợi nhuận đó nữa.
Còn trường hợp nếu tái đầu tư bằng cách giữ nguyên lợi nhuận trên tài khoản lợi nhuận chưa phân phối thì khi cần thiết vẫn có thể rút tiền ra trả cổ tức cho các cổ đông.
Kết luận
Trả cổ tức bằng cổ phiếu là việc công ty cổ phần sử dụng lợi nhuận sau thuế được tích lũy để bổ sung tăng vốn điều lệ, đồng thời tăng thêm số cổ phần cho các cổ đông theo tỉ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông trong công ty.
Do đó, nếu nhìn ở góc độ công ty thì tổng tài sản của công ty không thay đổi so với trước khi trả cổ tức; chỉ đơn thuần là chuyển khoản mục lợi nhuận thành khoản mục vốn cổ đông trên bảng cân đối kế toán, tuy nhiên số lượng cổ phần thường lưu hành trên thị trường sẽ tăng lên.
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính)