|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kiến thức Kinh tế

Chu kì cổ phiếu (Stock Cycle) là gì? Các giai đoạn trong chu kì cổ phiếu

00:50 | 19/04/2020
Chia sẻ
Chu kì cổ phiếu (tiếng Anh: Stock Cycle) là sự phát triển của giá cổ phiếu từ giai đoạn tích lũy, tăng trưởng rồi đến phân phối và suy thoái.
Chu kì cổ phiếu (Stock Cycle) là gì? Các giai đoạn trong chu kì cổ phiếu - Ảnh 1.

Hình minh họa. Nguồn: SpeedTrader

Chu kì cổ phiếu (Stock Cycle)

Định nghĩa

Chu kì cổ phiếu trong tiếng Anh là Stock Cycle.

Chu kì cổ phiếu là sự phát triển của giá cổ phiếu từ một xu hướng tăng ban đầu đến giá cao, sau đó đến một xu hướng giảm và giá thấp. Richard Wyckoff, một nhà giao dịch nổi tiếng và là người tiên phong trong phân tích kĩ thuật, đã phát triển một chu kì cổ phiếu thông qua bốn giai đoạn khác nhau, đó là:

(1) Tích lũy (Accumulation)

(2) Tăng trưởng (Markup)

(3) Phân phối (Distribution)

(4) Suy thoái (Markdown)

Hiểu về chu kì cổ phiếu

- Giá cổ phiếu có thể biến động ngẫu nhiên, nhưng có những chu kì giá sẽ lặp lại và điều này chủ yếu được thúc đẩy bởi sự tham gia của các tổ chức tài chính lớn.

Do đó, việc theo dõi các dòng tiền có nguồn gốc từ các tổ chức lớn trên thị trường giúp nhà đầu tư có thể xác đình được chu kì cổ phiếu.

- Chu kì cổ phiếu Wyckoff có các giai đoạn mở rộng và thu hẹp, giống như chu kì kinh tế.

- Các chu kì cổ phiếu có thể được sử dụng để phân bổ quản lí danh mục đầu tư, cho phép tăng đầu tư trong giai đoạn tích lũy và tăng trưởng và chốt lời trong giai đoạn phân phối và suy thoái.

Các nhà đầu tư đo lường một chu kì cổ phiếu bằng cách so sánh khoảng cách giữa các mức thấp để xác định xem giá đang ở đâu trong chu kì hiện tại.

Các giai đoạn trong chu kì cổ phiếu

(1) Tích lũy (Accumulation): Một xu hướng tăng bắt đầu với giai đoạn tích lũy. Đây là giai đoạn các nhà đầu tư tổ chức bắt đầu có được các vị thế lớn trong một cổ phiếu.

Hay nói cách khác, ở giai đoạn này, dòng tiền lớn đang tiến hành mua gom cổ phiếu một cách cẩn thận và khéo léo, mà không làm giá tăng. Điều này dẫn đến việc ở giai đoạn tích lũy cổ phiếu thường không được các nhà đầu tư quan tâm.

Các nhà đầu tư thường sử dụng các mức hỗ trợ và kháng cự để tìm các điểm vào lệnh phù hợp ở giai đoạn này của chu kì cổ phiếu.

(2) Tăng trưởng (Markup): Điểm phá vỡ của thời tích lũy bắt đầu chu tăng trưởng. Các nhà đầu tư theo xu hướng tạo ra phần lớn lợi nhuận trong giai đoạn này, vì giá cổ phiếu tiếp tục đạt các mức cao mới.

Trong giai đoạn này của chu kì cổ phiếu, các nhà giao dịch sử dụng các chỉ số, chẳng hạn như đường trung bình và đường xu hướng, để đưa ra quyết định đầu tư.

(3) Phân phối (Distribution): Các nhà đầu tư tổ chức bắt đầu thoát ra khỏi vị thế của họ trong giai đoạn này của chu kì cổ phiếu. Hành động giá bắt đầu đi ngang, khi con bò và gấu chiến đấu với nhau để giành quyền kiểm soát. Cũng trong giai đoạn này diễn ra sự phân kì kĩ thuật giữa giá cổ phiếu và các chỉ báo kĩ thuật.

(4) Suy thoái (Markdown): Thới gian tích luỹ thường khá dài, nhưng thời gian suy thoái thường nhanh hơn nhiều. Bên cạnh đó cường độ, biến động cũng mạnh hơn so với giai đoạn tích luỹ và tăng trưởng do các nhà đầu tư lúc này đang vội vàng thanh lí vị thế của họ.

(Tài liệu tham khảo: Investopedia)

Thanh Tùng