|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kiến thức Kinh tế

Qui luật lưu thông tiền tệ (The Law of Monetary Circulation) là gì?

09:45 | 16/10/2019
Chia sẻ
Qui luật lưu thông tiền tệ (tiếng Anh: The Law of Monetary Circulation) là qui luật qui định lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa trong một thời kì nhất định.
Qui luật lưu thông tiền tệ (The Law of Monetary Circulation) và Lạm phát (Inflation) là gì? - Ảnh 1.

Hình minh họa (Nguồn: WallPick - Best Wallpapers 4K)

Qui luật lưu thông tiền tệ (The Law of Monetary Circulation)

Khái niệm

Qui luật lưu thông tiền tệ trong tiếng Anh là The Law of Monetary Circulation.

Qui luật lưu thông tiền tệ là qui luật qui định lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa trong một thời kỳ nhất định. Qui luật này được thể hiện như sau:

Lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hoá trong một thời kỳ nhất định được xác định bằng tổng giá cả của hàng hóa lưu thông trong thời kỳ đó chia cho tốc độ lưu thông của đồng tiền.

Qui luật lưu thông tiền tệ (The Law of Monetary Circulation) và Lạm phát (Inflation) là gì? - Ảnh 2.

Trong đó:

- Tốc độ lưu thông của đồng tiền chính là số vòng quay trung bình của một đơn vị tiền tệ.

- Tổng giá cả của mỗi loại hàng hóa bằng giá cả nhân với khối lượng đưa vào lưu thông của hàng hóa ấy. Tổng giá cả của hàng hóa lưu thông bằng tổng giá cả của tất cả các loại hàng hóa lưu thông.

Lượng tiền cần thiết cho lưu thông này tính cho một thời kỳ nhất định, cho nên khi ứng dụng công thức này cần lưu ý một số điểm sau:

- Trong tính tổng giá cả phải loại bỏ những hàng hóa không được đưa ra lưu thông trong thời kỳ đó như: Hàng hóa dự trữ hay tồn kho không được đem ra bán hoặc để bán trong thời kỳ sau; hàng hóa bán (mua) chịu đến thời kỳ sau mới cần thanh toán bằng tiền; hàng hóa dùng để trao đổi trực tiếp với hàng hóa khác; hàng hóa được mua (bán) bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như ký sổ, chuyển khoản…

- Phải cộng thêm vào lượng tiền cần thiết cho lưu thông lượng tiền dùng để ứng trước, để đặt hàng trong thời kỳ này nhưng lại chỉ nhận hàng trong thời kỳ sau và lượng tiền mua (bán) hàng hoá chịu đã đến kỳ thanh toán.

Lạm phát (Inflation)

Lạm phát bao giờ cũng đi đôi với việc giá cả của hầu hết hàng hóa đồng loạt tăng lên làm cho giá trị của mỗi đơn vị tiền tệ giảm, sức mua của đồng tiền giảm. 

Sở dĩ như vậy vì khi lượng tiền được phát hành vượt quá mức cần thiết làm xuất hiện tình trạng ứ đọng tiền tệ; người giữ tiền sẵn sàng cho vay tiền với lãi suất thấp hơn, sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn hơn để mua một đơn vị hàng hóa, làm cho hàng hóa bị khan hiếm, giá cả leo thang... 

Có thể nói, bề nổi của lạm phát luôn là tình trạng mức giá chung tăng lên, giá trị của đơn vị tiền tệ giảm, sức mua của đồng tiền giảm. Chính vì vậy, để đo lường mức lạm phát, người ta dùng chỉ số giá cả. Có hai loại chỉ số giá cả được sử dụng phổ biến trong thống kê kinh tế là chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng.

(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lenin – NXB Chính trị Quốc gia)

Đỗ Đức Nhượng