|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kiến thức Kinh tế

Quản trị lợi nhuận (Earning Management) trong kế toán là gì?

17:03 | 17/09/2019
Chia sẻ
Quản trị lợi nhuận (tiếng Anh: Earning Management) thao túng lợi nhuận để hướng tới một mục tiêu đã được trước được thực hiện bởi các cấp quản lí và các nhà phân tích của công ty, hoặc để làm lợi nhuận trở nên đẹp hơn.
Process of customs procedure (3)

quản trị lợi nhuận

Khái niệm

Quản trị lợi nhuận trong tiếng Anh là Earning management.

Quản trị lợi nhuận là việc sử dụng những kĩ thuật kế toán để tạo báo cáo tài chính thể hiện một cái nhìn tích cực về hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của công ty. Nhiều qui tắc và nguyên tắc kế toán yêu cầu quản lí của một công ty đưa ra những đánh giá theo các nguyên tắc này. 

Sử dụng công cụ quản trị lợi nhuận

Quản trị lợi nhuận tận dụng các qui tắc kế toán và tạo báo cáo tài chính để phóng đại hoặc "làm đẹp" lợi nhuận.

Lợi nhuận ở đây đề cập đến thu nhập ròng hoặc lợi nhuận của một công ty trong một thời gian nhất định, chẳng hạn như quí tài chính hoặc năm tài chính. Các công ty sử dụng quản trị lợi nhuận để giảm bớt sự biến động trong lợi nhuận và đưa ra lợi nhuận phù hợp hơn trong mỗi tháng, quí hoặc năm. 

Biến động lớn về thu nhập hoặc chi phí có thể là một phần rất bình thường trong hoạt động của công ty, nhưng những thay đổi có thể báo động cho các nhà đầu tư nào muốn nhìn thấy sự ổn định và tăng trưởng.

Giá cổ phiếu của một công ty thường tăng hoặc giảm sau khi có thông báo lợi nhuận, tùy thuộc vào việc lợi nhuận có đáp ứng hay giảm so với kì vọng của các nhà phân tích hay không. 

Nhà quản lí có thể cảm thấy áp lực khi quản trị lợi nhuận bằng cách thao túng các hoạt động kế toán của công ty để đáp ứng kì vọng tài chính và khiến giá cổ phiếu của công ty tăng lên. Nhiều giám đốc điều hành nhận được tiền thưởng dựa trên hiệu suất lợi nhuận và những người khác có thể đủ điều kiện để hưởng quyền mua hoặc bán cổ phiếu khi giá cổ phiếu tăng. 

Ví dụ về quản trị lợi nhuận

Một phương pháp thao túng trong khi quản trị lợi nhuận là thay đổi chính sách kế toán, tạo lợi nhuận cao hơn trong ngắn hạn.  

Ví dụ: giả sử một nhà bán lẻ đồ nội thất sử dụng phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO) để tính chi phí cho các mặt hàng tồn kho được bán. Theo LIFO, các mặt hàng nào mới nhập về sẽ là những hàng hóa đầu tiên được xuất đi. Vì chi phí hàng tồn kho thường tăng theo thời gian, các mặt hàng mới hơn đắt hơn và điều này tạo ra chi phí bán hàng cao hơn và lợi nhuận thấp hơn. 

Nếu nhà bán lẻ chuyển sang phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO) để nhận biết chi phí hàng tồn kho, công ty sẽ xem xét các mặt hàng cũ hơn, rẻ hơn để bán trước. FIFO tạo ra giá vốn hàng bán thấp hơn chi phí và do đó, lợi nhuận cao hơn để công ty có thể công bố thu nhập ròng cao hơn trong giai đoạn hiện tại.

Một hình thức quản trị lợi nhuận khác là thay đổi chính sách của công ty để có nhiều chi phí được vốn hóa hơn là chi phí tức thì. Vốn hóa chi phí khi tài sản trì hoãn việc ghi nhận chi phí và tăng lợi nhuận trong ngắn hạn. 

Giả sử, ví dụ, chính sách của công ty qui định rằng mọi mặt hàng được mua dưới 5.000 đô la với chi phí tức thì và chi phí trên 5.000 đô la có thể được vốn hóa là tài sản. Nếu công ty thay đổi chính sách và bắt đầu tận dụng tất cả các mặt hàng trên 1.000 đô la, chi phí sẽ giảm trong ngắn hạn và lợi nhuận tăng.

(Theo Investopedia.com)

Lam Anh