|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Vì sao gạo ngon nhất thế giới ST24 và ST25 chưa được hưởng ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu sang EU?

12:15 | 08/09/2020
Chia sẻ
Việt Nam đã thương thảo với EU đối với 9 loại gạo này từ rất lâu và đây là những giống gạo phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên, có một số giống gạo thơm khác cũng rất tốt nhưng chưa nằm trong danh sách trong đó có ST24 và ST25.

Sẽ sớm đàm phán để bổ sung ST24 và ST25 vào danh sách gạo thơm được hưởng ưu đãi thuế quan

Tại buổi họp báo xuất khẩu gạo thơm sang EU, ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt cho biết theo qui định của Hiệp định EVFTA, hiện có 9 giống lúa thơm của Việt Nam xuất khẩu sang EU được hưởng ưu đãi thuế quan theo hạn ngạch 30.000 tấn bao gồm: Jasmine 85, ST 5, ST20, Nàng Hoa 9, VĐ 20, RVT, OM 4900, OM 5451 và Tài Nguyên Chợ Đào. 

Vì sao gạo ngon nhất thế giới ST24 và ST25 chưa được hưởng ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu sang EU? - Ảnh 1.

Ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt. Ảnh: Đức Quỳnh

Như vậy, trong 9 loại gạo này chưa có sự góp mặt của gạo ngon nhất thế giới là ST 24 và ST 25. 

Việt Nam đã thương thảo với EU đối với 9 loại gạo này từ rất lâu và đây là những giống gạo phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên, có một số giống gạo thơm khác cũng rất tốt nhưng chưa nằm trong danh sách. 

“Về vấn đề này, hàng năm Việt Nam và EU sẽ thảo luận để bổ sung danh sách các loại gạo thơm được hưởng ưu đãi thuế quan theo hạn ngạch 30.000 tấn”, ông Cường cho biết.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn Lê Quốc Doanh cho biết việc đàm phán xuất khẩu gạo thơm sang EU diễn ra cách đây hơn 10 năm. Trong khi đó, hai giống ST24 và ST25 mới được công nhận là gạo ngon nhất thế giới.

Vì sao gạo ngon nhất thế giới ST24 và ST25 chưa được hưởng ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu sang EU? - Ảnh 2.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn Lê Quốc Doanh. Ảnh: Đức Quỳnh

“Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ sớm làm việc với EU để bổ sung hai loại gạo này trong danh sách các loại gạo thơm được hưởng ưu đãi thuế quan. Tôi tin rằng phía EU sẽ chấp nhận đề nghị từ phía Việt Nam”, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh nhận định.

Tiềm năng xuất khẩu gạo thơm sang EU còn rất lớn

Theo đại diện Cục Trồng trọt, hiện tại, 9 giống gạo thơm trên chủ yếu được sản xuất ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tổng sản lượng lúa trung bình tại khu vực này hàng năm khoảng 25 triệu tấn. Trong đó, giống lúa chất lượng cao chiếm 45% và lúa thơm chiếm 30% trong tổng số cơ cấu giống.

Đặc biệt, chỉ tính riêng hai giống  OM 4900, OM 5451 mỗi năm cho sản lượng khoảng 3 triệu tấn gạo. Tương tự các giống còn lại trong số 9 giống trên chiếm khoảng 15% diện tích lúa thơm với sản lượng mỗi năm trên 1 triệu tấn gạo. 

“Với 30.000 tấn trong hạn ngạch được hưởng thuế suất ưu đãi khi xuất khẩu sang EU, tiềm năng còn rất lớn cho gạo thơm Việt Nam bởi con số này chiếm khoảng 1% tổng sản lượng gạo thơm của cả nước”, ông Cường nói.

Cục trưởng Cục Trồng trọt nhận định nếu thực hiện tốt các qui định của EU và xuất khẩu được 30.000 tấn gạo thơm nói riêng và 80.000 tấn gạo nói chung theo hạn ngạch sang EU với giá bán cao sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo Việt Nam. 

Đồng thời cũng khẳng định được thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường khó tính như EU nói riêng và trên thế giới nói chung.  

Đồng thời, đây cũng là cơ sở cho việc đàm phán mở rộng hạn ngạch xuất khẩu gạo thơm vào thị trường EU trong thời gian tiếp theo.

“Tuy rằng 30.000 tấn chưa lớn, nhưng nếu kiểm soát tốt về chất lượng và người dân EU tiếp nhận, đánh giá cao, tôi tin rằng mức hạn ngạch sẽ được nâng lên trong thời gian tới”, thứ trưởng Lê Quốc Doanh nhận định.

Theo Hiệp định EVFTA, EU dành cho Việt Nam hạn ngạch 80.000 tấn gạo/năm. Trong đó, 30.000 tấn gạp xay xát, 20.000 tấn gạo chưa xay xát và 30.000 tấn gạo thơm. 

Đặc biệt, EU tự do hóa hoàn toàn đối với gạo tấm. Cam kết này giúp Việt Nam có thể xuất khẩu khoảng 100.000 tấn vào EU mỗi năm. 

Đối với sản phẩm từ gạo, EU sẽ đưa thuế suất về 0% sau 3 - 5 năm. Trong khi đó, hai nhà xuất khẩu gạo lớn vào EU là Campuchia và Myanmar đang chịu thuế tuyệt đối với mặt hàng này cho đến hết năm 2021. Cụ thể 175 euro/tấn (2019); 150 euro/tấn (2020) và 125 euro/tấn (2021).

H.Mĩ