|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kiến thức Kinh tế

Thất nghiệp tự nhiên (Natural Unemployment) là gì? Các dạng thất nghiệp tự nhiên

20:06 | 14/08/2019
Chia sẻ
Thất nghiệp tự nhiên (tiếng Anh: Natural Unemployment) được dùng để chỉ mức thất nghiệp mà bình thường nền kinh tế phải trải qua.
Screenshot (91)

Hình minh họa. Nguồn: Investopedia

Thất nghiệp tự nhiên (Natural Unemployment)

Định nghĩa

Thất nghiệp tự nhiên trong tiếng Anh gọi là Natural Unemployment. Thất nghiệp tự nhiên được dùng để chỉ mức thất nghiệp mà bình thường nền kinh tế phải trải qua.

Phân loại

Các dạng thất nghiệp được tính vào thất nghiệp tự nhiên bao gồm:

Thất nghiệp tạm thời

Thất nghiệp tạm thời bắt nguồn từ sự dịch chuyển bình thường của thị trường lao động. Một nền kinh tế vận hành tốt là nền kinh tế có sự ăn khớp giữa lao động và việc làm. 

Trong một nền kinh tế phức tạp, chúng ta không thể hi vọng những sự ăn khớp như vậy xuất hiện tức thì vì trên thực tế người lao động có những sở thích và năng lực khác nhau. Trong khi  việc làm cũng có những thuộc tính khác nhau. 

Hơn nữa, luông thông tin về về người muốn tìm việc và chỗ làm việc còn trống không phải lúc nào cũng trùng khớp cũng như sự cơ động về mặt địa lí của người lao động cũng không thể diễn ra ngay lập tức.

Như vậy, chúng ta cần phải dự tính và coi một mức thất nghiệp nhất định là cần thiết và đáng mong muốn trong các xã hội hiện đại.

Thất nghiệp cơ cấu

Thất nghiệp cơ cấu phát sinh từ sự không ăn khớp giữa cung và cầu trên các thị trường lao động cụ thể. Mặc dù số người đang tìm việc làm đúng bằng số việc làm còn trống, nhưng người tìm việc và việc tìm người lại không khớp nhau về kĩ năng, ngành nghề hoặc địa điểm. 

Ví dụ: Một công nhân bậc 7 có thể làm việc hơn 25 năm trong ngành dệt nhưng có thể trở thành người thất nghiệp ở tuổi 50 khi ngành dệt đang bị thu hẹp do đối mặt với sự cạnh tranh từ phía nước ngoài.

Thất nghiệp theo lí thuyết Cổ điển

Mô hình Cổ điển giả định rằng  lương thực tế điều chỉnh để cân bằng thị trường lao động, đảm bảo trang thái đầy đủ việc làm.

Các nhà kinh tế Cổ điển cho rằng các lực lượng khác nhau trên thị trường lao động, gồm có luật pháp, thể chế và truyền thống, có thể ngăn cản lương thực tế điều chỉnh đủ mức để duy trì trạng thái đầy đủ việc làm. Nếu lương thực tế không thể giảm xuống mức đầy đủ việc làm thì thất nghiệp sẽ xuất hiện.

Loại thất nghiệp này thường được gọi là thất nghiệp theo lí thuyết Cổ điển. Ba nguyên nhân chủ yếu có thể làm cho lương thực tế cao hơn mức cân bằng thị trường trong các nền kinh tế hiện đại, đó là: luật tiền lương tối thiểu, hoạt động công đoàn và tiền lương hiệu quả.

Cả ba lí thuyết này đều giải thích lí do lương thực tế có thể duy trì ở mức "quá cao" khiến một số người lao động có thể bị thất nghiệp.

Tác động

- Không phải mọi bộ phận của thất nghiệp tự nhiên đều phản ánh sự lãng phí nguồn lực. Trong một chừng mực nào đó thất nghiệp tạm thời có thể là một điều tốt, người ta không chấp nhận công việc đầu tiên mà họ được yêu cầu. 

Quá trình tìm việc sẽ giúp người lao động có thể kiếm được việc làm tốt hơn, phù hợp hơn với nguyện vọng và năng lực của họ. Điều này còn có một lợi ích xã hội: làm cho lao động và việc làm ăn khớp với nhau hơn  và do đó các nguồn lực sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả hơn, góp phần làm tăng tổng sản lượng của nền kinh tế trong dài hạn.

- Thất nghiệp cũng có nghĩa là công nhân có nhiều thời gian nghỉ ngơi hơn. Bằng cách từ bỏ làm việc, một số người sẽ nhận thấy rằng nghỉ ngơi thêm mang lại cho họ nhiều giá trị hơn so với khoản thu nhập mà họ có thể nhận nếu làm việc.

Tuy nhiên chỉ một phần của thất nghiệp tự nhiên thuộc loại này. Một số công nhân bị mất việc trong thời gian dài, mà không có cơ hội thực sự tìm được việc làm. Điều quan trọng cần hiểu là phải chăng những trở ngại để có việc là do sự khiếm khuyết của thị trường và liệu các khiếm khuyết này có thể khắc phục bằng các chính sách.

(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính)

Minh Lan

MBS dự phóng lợi nhuận 4 ngành có thể tăng bằng lần trong quý IV
Lợi nhuận một số ngành dự báo giảm trong quý cuối năm như bất động sản khu công nghiệp do còn đợi hoàn thiện khung chính sách hay dầu khí do giá dầu suy giảm so với cùng kỳ.