CPTPP: Cam kết thuế nhập khẩu đối với sản phẩm chăn nuôi, thịt và chế phẩm từ thịt
Theo Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), ngành chăn nuôi hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các hoạt động chăn nuôi và sản phẩm từ động vật (thịt, trứng, sữa, mật ong...).
Chế biến thịt bao gồm hoạt động sản xuất, chế biến các loại thịt gia súc, gia cầm và động vật khác (trừ thủy sản).
Trong khuôn khổ nội dung bài viết này chỉ tập trung vào hoạt động chăn nuôi lấy thịt; sản xuất, chế biến, xuất nhập khẩu thịt, phụ phẩm từ thịt và động vật sống thuộc ba nhóm quan trọng nhất với Việt Nam là trâu bò, heo, gia cầm.
Đối với các hàng hóa như trâu bò, heo, gia cầm (động vật sống, thịt, chế phẩm từ thịt), cam kết quan trọng nhất trong các FTA là cam kết của mỗi nước Thành viên về thuế quan áp dụng với hàng hóa nhập khẩu từ nước Thành viên khác. Trong CPTPP cũng như vậy, cam kết về thuế nhập khẩu là cam kết đáng chú ý nhất.
Cam kết về thuế quan trong CPTPP được nêu tại:
Lời văn của Chương 2 - Đối xử quốc gia và mở cửa thị trường đối với hàng hóa
Các Phụ lục của Chương 2 – Lộ trình cắt giảm thuế quan của mỗi nước thành viên CPTPP (mỗi nước có một hoặc các Biểu cam kết riêng)
Về mức cam kết, trong CPTPP, tùy từng nước Thành viên, mức cam kết về thuế quan đối với nhóm trâu bò, heo, gia cầm (động vật sống, thịt, chế phẩm từ thịt) tương đối khác nhau, cơ bản có thể chia làm ba nhóm:
Nhóm xóa bỏ thuế quan ngay khi CPTPP có hiệu lực (phần lớn các sản phẩm động vật sống thuộc nhóm này)
Nhóm cắt giảm và xóa bỏ thuế quan theo lộ trình (khoảng 5-16 năm tùy sản phẩm, tùy đối tác)
Nhóm xóa bỏ thuế quan theo hạn ngạch kèm lộ trình (xóa bỏ thuế ngay với khối lượng trong hạn ngạch, và giảm thuế theo lộ trình với khối lượng ngoài hạn ngạch); hoặc hạn ngạch không kèm lộ trình (chỉ giảm thuế với khối lượng trong hạn ngạch, ngoài hạn ngạch áp dụng MFN không có lộ trình giảm)
Ý nghĩa của cam kết về thuế quan đối với hàng nhập khẩu
Tương tự như bất kỳ FTA nào, cam kết về thuế quan trong CPTPP là cam kết của nước Thành viên về mức thuế nhập khẩu tối đa mà nước đó sẽ áp dụng cho từng loại hàng hóa nhập khẩu từ một nước Thành viên khác trong CPTPP.
Như vậy, nước thành viên CPTPP sẽ không thể áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước thành viên CPTPP khác mức thuế nhập khẩu cao hơn mức đã cam kết, theo lộ trình cam kết, nhưng nước thành viên CPTPP hoàn toàn có thể đơn phương hạ thuế quan xuống mức thấp hơn mức cam kết hoặc cắt giảm, loại bỏ thuế quan sớm hơn lộ trình cam kết.
Do đó, mức thuế áp dụng trên thực tế có thể bằng hoặc thấp hơn mức thuế cam kết, Doanh nghiệp chỉ tham khảo mức cam kết trong CPTPP để biết mức thuế cao nhất có thể bị áp dụng, còn mức thuế thực tế áp dụng sẽ căn cứ vào Biểu thuế xuất nhập khẩu theo pháp luật nội địa của từng nước.
Trong CPTPP, mỗi nước Thành viên đưa ra một Biểu cam kết thuế quan riêng, áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu từ tất cả các nước Thành viên còn lại (trừ một số hãn hữu các trường hợp áp dụng thuế riêng cho từng nước/nhóm nước cụ thể trong CPTPP).
Theo Biểu hài hóa thuế quan (HS), các sản phẩm động vật sống, thịt, chế phẩm từ thịt quan trọng với Việt Nam nằm trong một số Chương và Nhóm HS nhất định. Các cam kết thuế quan trong CPTPP xem xét dưới đây cũng sẽ được giới hạn ở các sản phẩm thuộc Chương, Nhóm HS này. Cụ thể: