|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kiến thức Kinh tế

Kiểm soát Logistics (Logistics Control) là gì? Mô hình kiểm soát Logistics

11:20 | 25/10/2019
Chia sẻ
Kiểm soát Logistics (tiếng Anh: Logistics Control) là điều mà các nhà quản trị Logistics thường phải triển khai để đảm bảo thực hiện các mục tiêu mong muốn.
tieu-chuan-chat-luong-min

Kiểm soát Logistics (Logistics Control) (Nguồn: vertigo)

Kiểm soát Logistics (Logistics Control)

Kiểm soát Logistics - danh từ, trong tiếng Anh được dùng bởi cụm từ Logistics Control.

Kiểm soát Logistics là quá trình so sánh kết quả hiện tài với kế hoạch đã đề ra, thiết lập hành động điều chỉnh để cho hoạt động Logistics trở nên phù hợp, chặt chẽ hơn. Quá trình kiểm soát Logistics bao gồm các hoạt động kiểm tra những điều kiện thay đổi và tiến hành điều chỉnh

Kiểm soát Logistics thường hướng tới hai đối tượng: kiểm soát đầu ra hoặc mức độ dịch vụ và đầu vào của hệ thống Logistics. Các đối tượng chính của kiểm soát Logistics là: mức độ dịch vụ, doanh thu hàng tồn kho, chi phí lưu kho, chi phí vận chuyển và chi phí hành chính. (Theo International Institute for Applied Systems Analysis - IIASA)

Mô hình kiểm soát Logistics

Quá trình kiểm soát Logistics diễn ra gần như hàng ngày. Trong hệ thống Logistics, các nhà quản trị kiểm soát các hoạt động Logistics kế hoạch (vận chuyển, kho, dự trữ, . . . ) theo hướng dịch vụ kế hoạch và chi phí hoạt động. Bộ máy kiểm soát gồm hạch toán và báo cáo kết quả về hệ thống, các mục tiêu hoạt động, một số thông số để thiết lập hành động điều chỉnh.

Capture

Hệ thống kiểm soát Logistics

Đầu vào, quá trình, và đầu ra

Tập trung của hệ thống kiểm soát là các quá trình được điều tiết. Quá trình này có thể là họat động đơn lẻ như thực hiện đơn đặt hàng và tái cung ứng dự trữ, hoặc có thể là sự kết hợp của toàn bộ các hoạt động trong chức năng Logistics. Có những đầu vào quá trình ở dạng kế hoạch. Các kế hoạch chỉ ra cách thức thiết kế quá trình. 

Ảnh hưởng của môi trường là loại đầu vào thứ hai của quá trình. Môi trường bao gồm mọi nhân tố có thể ảnh hưởng đến các quá trình và không được dự tính trong kế hoạch. Điều này giải thích sự không ổn định làm biến đổi đầu ra quá trình so với kế hoạch. 

Đầu ra của quá trình là cái mà chúng ta thường gọi là kết quả. Kết quả là tình trạng của quá trình ở bất kì một thời điểm nào. Kết quả có thể được đo lường theo chi phí trực tiếp như cước phí vận chuyển, chi phí gián tiếp như hao hụt và tổn thất do tai nạn, hoặc kết quả cung ứng.

Các quá trình với các kế hoạch đầu vào và kết quả thực hiện là đối tượng của quá trình kiểm soát. Các nhân tố này là kết quả của quá trình kế hoạch hoá và thực thi. 

Các tiêu chuẩn và mục đích

Chức năng kiểm soát yêu cầu cần phải có các tiêu chuẩn để so sánh với kết quả hoạt động. Các nhà quản trị cố gắng làm cho kết quả hoạt động phù hợp với tiêu chuẩn. Có rất nhiều loại tiêu chuẩn khác nhau như: ngân sách chi tiêu, trình độ dịch vụ khách hàng, đóng góp lợi nhuận...

Kiểm tra

Kiểm tra là trung tâm đầu não của hệ thống kiểm soát. Nó nhận thông tin về kết quả của quá trình, so sánh với các mục tiêu, tiêu chuẩn, và thiết lập các hoạt động điều chỉnh. 

Đa số những thông tin nhận được từ các báo cáo định kì và các tài liệu hạch toán như: báo cáo tình trạng dự trữ, tình trạng sử dụng nguồn lực, chi phí hoạt động, trình độ dịch vụ khách hàng... Những người kiểm tra là các nhà quản trị, cố vấn hoặc máy điện toán. (Theo Giáo trình Quản trị Logistics, NXB Tài chính)

Khai Hoan Chu