Tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Product - GNP) là gì? Cách xác định GNP
Hình minh họa. Nguồn: 123rf
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
Định nghĩa
Tổng sản phẩm quốc dân trong tiếng Anh là Gross National Product, viết tắt là GNP.
Tổng sản phẩm quốc dân là một chỉ tiêu đo lường tổng giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra bằng yếu tố sản xuất của một quốc gia trong một thời kì nhất định (thường là một năm).
Bản chất
Chúng ta cần phải đi sâu phân tích những ẩn chứa đằng sau trong các cụm từ của định nghĩa này, qua đó làm rõ sự khác biệt cơ bản giữa GNP và GDP.
(1) "là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị thị trường": GNP cộng rất nhiều loại sản phẩm thành một chỉ tiêu duy nhất về giá trị của hoạt động kinh tế. Để làm được điều này, GNP phải sử dụng giá thị trường. Do giá thị trường biểu thị số tiền mà mọi người sẵn sàng chi trả cho các hàng hoá khác nhau, nên nó phản ánh giá trị của những hàng hoá này.
(2) "của tất cả": GNP cố gắng biểu thị một cách đầy đủ tất cả các hàng hoá được sản xuất ra trong nền kinh tế và được bán hợp pháp trên các thị trường.
Tuy nhiên, trong thực tế có một số sản phẩm mà GNP bỏ sót do tính toán chúng quá khó khăn. GNP không tính những phẩm được sản xuất ra và bán trong nền kinh tế ngầm. Ví dụ: các dược phẩm bất hợp pháp. Nó cũng không tính được những sản phẩm được sản xuất và tiêu dùng trong gia đình mà không bao giờ được đưa ra thị trường.
Ví dụ: những loại rau quả nằm trong các cửa hàng là một phần của GNP, nhưng việc bạn tiêu dùng rau quả trong vườn nhà bạn thì lại không nằm trong GNP.
(3) "hàng hoá và dịch vụ": GNP bao gồm cả những hàng hoá hữu hình (thực phẩm, xe hơi, quần áo...) và những dịch vụ vô hình (cắt tóc, khám bệnh, lau nhà...).
Ví dụ: khi bạn mua một chiếc đĩa CD của một nhóm nhạc mà bạn yêu thích, thì điều này có nghĩa là bạn mua một hàng hoá và giá mua nằm trong GNP. Khi bạn trả tiền để nghe một buổi hoà nhạc, thì có nghĩa là bạn mua một dịch vụ và giá vé cũng nằm trong GNP.
(4) "cuối cùng": có nghĩa là GNP chỉ bao gồm giá trị của những hàng hoá và dịch vụ cuối cùng, không tính giá trị của những hàng hóa trung gian.
Cần lưu ý có một số trường hợp ngoại lệ: khi hàng hoá trung gian được đem vào quá trình sản xuất ra sản phẩm và sản phẩm này không được đưa ra sử dụng mà đưa vào hàng tồn kho của doanh nghiệp để bán trong tương lai. Trong trường hợp đó hàng hoá trung gian được coi là hàng hoá cuối cùng và giá trị của nó tồn tại dưới dạng đầu tư vào hàng tồn kho, được tính vào GNP.
Khi mức hàng hóa trung gian này được sử dụng hoặc bán ra thì đầu tư vào hàng tồn kho của doanh nghiệp sẽ là số âm. GNP trong thời kì sau phải giảm đi một lượng tương ứng.
(5) "được sản xuất ra": GNP bao gồm mọi hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong thời kì hiện tại. Nó không bao gồm những giao dịch liên quan đến hàng hoá được sản xuất ra trong quá khứ.
(6) "bằng yếu tố sản xuất của một quốc gia": đây cũng là cụm từ làm nên sự khác biệt duy nhất giữa GNP và GDP. Yếu tố sản xuất của một quốc gia dù có tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất kì đâu trên thế giới thì kết quả tạo ra cũng được đưa vào GNP của quốc gia đó.
(7) "trong một thời kì nhất định": GNP phản ánh giả trị sản xuất thực hiện trong một khoảng thời gian cụ thể. Khoảng thời gian này thường là một năm hoặc một quí. GNP phản ánh lượng thu nhập hay chi tiêu trong thời kì đó.
Cách xác định
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) sẽ bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cộng thêm khoản thu nhập mà dân cư trong nước tạo ra ở nước ngoài và trừ đi các khoản thu nhập mà người nước ngoài tạo ra trong nước.
Chênh lệch giữa các khoản thu nhập chuyển ra nước ngoài và chuyển vào trong nước được gọi là thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài (tiếng Anh gọi là Net Foreign Factor Income, kí hiệu NFFI hoặc Net Factor Income from Abroad, kí hiệu NFIA hay NIA).
Quan hệ giữa GNP và GDP được thể hiện qua công thức sau:
GNP = GDP ± NIA
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế vĩ mô, NXB Tài chính)