|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Logistics trước áp lực cạnh tranh - Bài cuối: Cần lộ trình dài hơn cho logistics Việt Nam

14:00 | 18/01/2024
Chia sẻ
Việc kết nối giữa phương thức vận tải vẫn tiếp tục là nguyên nhân dẫn đến chi phí logistics còn cao, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp logistics Việt Nam.

Tân Cảng Sài Gòn, (TP HCM), cảng hiện đại và lớn nhất Việt Nam với thị phần container xuất nhập khẩu chiếm trên 90% khu vực phía Nam và hơn 60% thị phần cả nước. (Ảnh: TTXVN)

Việt Nam đang đứng thứ 11 trong nhóm 50 thị trường logistics mới nổi toàn cầu, với quy mô của ngành đạt hơn 40 tỷ USD mỗi năm.

Mặc dù đối mặt với nhiều thách thức, song ngành logistics vẫn có đủ những điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, năm 2024, dự báo nền kinh tế thế giới từng bước phục hồi, cùng với xu hướng dịch chuyển đầu tư...và đây là cơ hội để doanh nghiệp logistics tìm lại đơn hàng thúc đẩy xuất khẩu, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.

Xung quanh những thách thức, giải pháp hỗ trợ ngành này tăng trưởng, phóng viên TTXVN đã có cuộc phỏng vấn ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương).

Phóng viên: Với logistics, hạ tầng hiện đang là một trong những thách thức trong sự phát triển ngành, làm giảm sức cạnh tranh với đối thủ nước ngoài. Ông có thể chia sẻ rõ hơn về vấn đề này?

Phó Cục trưởng Trần Thanh Hải: Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, tham gia tích cực vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) và với lợi thế địa kinh tế, ngành dịch vụ logistics Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội phát triển, cũng như tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng logistics toàn cầu. Để có thể phát triển được ngành dịch vụ logistics Việt Nam như kỳ vọng đặt ra, một trong những yếu tố quan trọng, tiên quyết chính là vấn đề hạ tầng và sự kết nối về hạ tầng.

Thời gian qua, Bộ Giao thông Vận tải đã xây dựng, triển khai các quy hoạch chuyên ngành giao thông vận tải thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống hạ tầng thương mại, logistics.

Chỉ riêng 2 năm (2022 – 2023), đã có thêm hơn 143.000 tỷ đồng của Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế - xã hội để đầu tư cho các công trình, dự án quan trọng; trong đó, một phần không nhỏ được dành cho hạ tầng giao thông - là huyết mạch của nền kinh tế và của ngành logistics.

Tuy nhiên, hệ thống hạ tầng logistics vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, phân tán và thiếu tính kết nối. Hơn nữa, việc kết nối giữa phương thức vận tải vẫn tiếp tục là nguyên nhân dẫn đến chi phí logistics còn cao, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp logistics Việt Nam.

Hiện nay, Việt Nam còn thiếu các khu kho vận tập trung có vị trí chiến lược, đồng bộ với hệ thống cảng, sân bay, đường quốc lộ, cơ sở sản xuất; thiếu trung tâm logistics cấp quốc gia, quốc tế tại khu vực kinh tế trọng điểm để làm đầu mối phân phối hàng hóa. Hạ tầng công nghệ thông tin về logistics chưa được đầu tư và quản lý đồng bộ, tích hợp giữa hệ thống và ứng dụng công nghệ thông tin cũng còn nhiều khó khăn.

Phóng viên: Nguồn nhân lực cũng là vấn đề quan trọng và theo ông vấn đề này có vai trò ra sao trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp logistics Việt Nam?

Phó Cục trưởng Trần Thanh Hải: Cùng với thể chế chính sách, cơ sở hạ tầng, quy mô và năng lực doanh nghiệp, ứng dụng công nghệ thông tin, nguồn nhân lực là một khía cạnh mang tính chất nền tảng trong việc phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam.

Ông Trần Thanh Hải-Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương). (Ảnh: TTXVN)

Việc đào tạo và nâng cao chất lượng nhân lực logistics đã được Thủ tướng Chính phủ quan tâm và giao nhiệm vụ tại Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 và Quyết định số 221/QĐ-TTg ngày 22/02/2021 về Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics đến năm 2025. Những năm qua, ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ nên đặt ra nhu cầu rất cao đối với nguồn nhân lực cho lĩnh vực này, cả về số lượng và chất lượng.

Theo khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam, 50% số doanh nghiệp logistics có nhu cầu tuyển dụng thêm từ 15 - 20% nhân viên và đến năm 2030 Việt Nam cần đến hơn 200.000 nhân lực phục vụ cho ngành này.

Đó là chưa kể đến nhu cầu nhân lực logistics cho doanh nghiệp sản xuất, thương mại và xuất nhập khẩu. Với tốc độ tăng trưởng trung bình từ 20 - 25%/năm của ngành dịch vụ logisics, việc thiếu hụt nguồn nhân lực sẽ tác động lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp logistics trong nước.

Gần đây, hàng loạt các trường chính thức mở ngành, chuyên ngành đào tạo về logistics đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong đào tạo nhân lực logistics bậc đại học. Bên cạnh đào tạo ở bậc đại học, các trường cao đẳng, trung cấp cũng tích cực tuyển sinh và đào tạo nghề logistics.

Thống kê cho thấy, động thái tích cực của các trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề nhằm đáp ứng được phần nào nhu cầu cấp thiết của thị trường về nhân lựclogistics, giải quyết dần bài toán thiếu nhân lực mà ngành đang phải đối diện. Về lâu dài, nhân lực sẽ là yếu tố quyết định để giúp doanh nghiệp logistics Việt Nam nhanh chóng đuổi kịp các nước, nâng cao tính cạnh tranh, mở rộng thị trường ở cả trong nước và quốc tế.

Bởi vậy, đòi hỏi phải có sự tham gia và cam kết tích cực của Chính phủ, các bộ, ngành liên quan, chính quyền địa phương, Hiệp hội Phát triển nhân lực Logistics Việt Nam, hệ thống trường đại học, cao đẳng, trung cấp cũng như cộng đồng doanh nghiệp logistics Việt Nam.

Đặc biệt là thực hiện một số định hướng lớn như: Xây dựng trung tâm, viện nghiên cứu chuyên về lĩnh vực logistics; Đào tạo kỹ năng, kỷ luật và tác phong làm việc của nguồn nhân lực hiện tại đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động logistics; Xây dựng tiêu chuẩn nghề trong lĩnh vực logistics…

Phóng viên: Năm 2024, Bộ Công Thương đã đặt mục tiêu như thế nào và cần có những hành động cụ thể gì để ngành logistics Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, thưa ông?

Phó Cục trưởng Trần Thanh Hải: Năm 2024, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, kinh tế thế giới còn tiềm ẩn nhiều rủi ro từ các cuộc xung đột địa chính trị, thương mại, chu kỳ khủng hoảng kinh tế. Chính sách kinh tế và thương mại của các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc… có thể thay đổi nhanh và có tác động đa chiều.

Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, dịch vụ logistics dần trở thành một nội dung không thể thiếu trong quá trình sản xuất, kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng.

Bên cạnh đó, Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 sắp kết thúc. Do đó, Việt Nam cần có một lộ trình dài hơn, bài bản hơn để đưa ra định hướng phát triển cho ngành dịch vụ Việt Nam có sự điều chỉnh, cập nhật kịp thời để phát triển nhanh, mạnh và bền vững.

Vì thế, các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp cần hoàn thiện, ban hành Chiến lược tổng thể phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045 với những mục tiêu, định hướng, biện pháp và lộ trình cụ thể. Qua đó, hiện thực hóa mục tiêu chuyển đổi kép là chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên bản đồ logistics thế giới.

Ngoài ra, các đơn vị nên triển khai đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ nêu tại Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 về phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển ngành dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025; Quyết định số 221/QĐ-TTg ngày 22/02/2021 đặt mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của dịch vụ logistics vào GDP đạt từ 5 - 6%, giảm so với mục tiêu đặt ra tại Quyết định số 200 ban hành trước đó (đặt mục tiêu đạt từ 8 - 10%); Quyết định số 708/QĐ-BCT ngày 26/3/2019 nêu các nhiệm vụ mà Bộ Công Thương và các bộ ngành, địa phương, hiệp hội cần triển khai để góp phần nâng cao điểm số và xếp hạng chỉ số hiệu quả logistics tại các bộ, ngành, địa phương.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt giảm hoặc đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến logistics, đơn giản hóa thủ tục kiểm tra chuyên ngành; phối hợp chặt chẽ, nhanh chóng trong việc xử lý các vướng mắc, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Mặt khác, huy động nguồn lực, tập trung tháo gỡ khó khăn, triển khai các dự án trọng điểm của ngành giao thông vận tải; nâng cao chất lượng đầu tư phát triển và kết nối hạ tầng logistics làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.

Đặc biệt, các đơn vị cần thúc đẩy xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực logistics, tận dụng cơ hội mang lại từ các FTA, nhất là các FTA thế hệ mới; tận dụng hiệu quả làn sóng chuyển dịch đầu tư để thu hút đầu tư phát triển các trung tâm logistics, nhất là trung tâm logistics ứng dụng công nghệ cao…. Cuối cùng là nâng cao vai trò của hiệp hội trong lĩnh vực logistics và doanh nghiệp hạt nhân, thúc đẩy hình thành chuỗi cung ứng hiện đại, phát triển dịch vụ logistics giá trị gia tăng đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn Phó Cục trưởng!

Uyên Hương

Vàng, đô và lãi suất: Ý nghĩa như thế nào với kinh tế Việt Nam?
Tỷ giá USD/VND đã tăng 4,5% so với đầu năm, cao hơn 1% so với mức mất giá bình quân dưới 3,5% trong gần 1 thập kỷ. Điều này đã gây sức ép lớp lên các nhà điều hành phải đưa ra một loạt các chính sách kết hợp nhằm ngăn chặn sự giảm giá của đồng VND, tạo ra những tác động nhất định lên thị trường tài chính.