|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kiến thức Kinh tế

Lí thuyết giá trị lao động (Labor Theory Of Value) là gì? Nội dung lí thuyết về giá trị lao động

01:37 | 20/10/2019
Chia sẻ
Lí thuyết giá trị lao động (tiếng Anh: Labor Theory Of Value) là một nỗ lực ban đầu của các nhà kinh tế để giải thích tại sao hàng hóa được trao đổi với giá tương đối nhất định trên thị trường.
hqdefault

Hình minh họa (Nguồn: i.ytimg.com)

Lí thuyết giá trị lao động (Labor Theory Of Value)

Khái niệm

Lí thuyết giá trị lao động trong tiếng Anh là Labor Theory Of Value; viết tắt là LTV.

Lí thuyết giá trị lao động (Labor Theory Of Value) là một nỗ lực ban đầu của các nhà kinh tế để giải thích tại sao hàng hóa được trao đổi với giá tương đối nhất định trên thị trường. Nó gợi ý rằng giá trị của một hàng hóa có thể được đo lường một cách khách quan bằng số giờ lao động trung bình cần thiết để sản xuất nó. Những người ủng hộ nổi tiếng nhất của lí thuyết lao động là Adam Smith, David Ricardo và Karl Marx.

Lí thuyết giá trị lao động cho rằng hai mặt hàng sẽ giao dịch với cùng một mức giá nếu chúng thể hiện cùng một lượng thời gian lao động, nếu không chúng sẽ trao đổi theo tỉ lệ cố định bởi sự khác biệt tương đối trong thời gian lao động của hai mặt hàng này.

Nội dung lí thuyết về giá trị lao động

Khi phát triển lí thuyết về giá trị lao động của họ, cả Smith (trong cuốn "Sự giàu có của các quốc gia") và Ricardo bắt đầu bằng cách nghĩa ra một giả thuyết về "sự sơ khai và chính quyền đầu tiên" của loài người bao gồm việc sản xuất hàng hóa đơn giản. 

Ở nhà nước sơ khai này, chỉ có những người tự sản xuất trong nền kinh tế, tất cả đều sở hữu vật liệu, thiết bị và công cụ cần thiết để sản xuất. Không có sự phân biệt giai cấp giữa nhà tư bản, người lao động và chủ nhà, vì vậy khái niệm về vốn như chúng ta biết vẫn chưa được sử dụng.

Họ lấy ví dụ đơn giản hóa về một thế giới chỉ có hai mặt hàng là hải ly và hươu. Nếu sản xuất hươu có lợi hơn hải ly, sẽ có sự chuyển đổi về sản xuất giữa người sản xuất hải ly sang sản xuất hươu.

Nguồn cung của hươu trao đổi bằng hiện vật sẽ tăng lên khiến thu nhập trong sản xuất hươu giảm, đồng thời thu nhập trong việc sản xuất hải ly tăng vì ít người làm công việc sản xuất đó. 

Trong khi Smith mô tả khái niệm và nguyên tắc cơ bản của LTV thì Ricardo quan tâm đến việc giá cả tương đối giữa các mặt hàng được chi phối như thế nào. Lấy lại ví dụ về sản xuất hải ly và hươu. Nếu phải mất 20 giờ lao động để tạo ra một con hải ly và 10 giờ lao động để tạo ra một con hươu, thì một con hải ly sẽ đổi lấy hai con nai, cả hai đều bằng 20 đơn vị thời gian lao động.

Chi phí sản xuất không chỉ liên quan đến chi phí trực tiếp ra ngoài và săn bắn, mà còn cả chi phí gián tiếp trong việc sản xuất các dụng cụ cần thiết như làm cái bẫy để bắt hải ly hoặc dùng cung và mũi tên để săn hươu.

Tổng số lượng thời gian lao động được tích hợp theo chiều dọc - bao gồm cả thời gian lao động trực tiếp và gián tiếp. Vì vậy, nếu cần 12 giờ để làm bẫy hải ly và 8 giờ để bắt hải ly thì bằng 20 tổng số giờ lao động.

Mặc dù giá thị trường có thể dao động thường xuyên do cung và cầu tại bất kì thời điểm nào, giá tự nhiên đóng vai trò là trung tâm. Nếu giá thị trường vượt qua giá tự nhiên, mọi người sẽ được khuyến khích bán nhiều hơn. Trong khi giá thị trường đánh giá là thấp hơn giá tự nhiên thì người ta được khuyến khích mua nhiều hơn. Theo thời gian, sự cạnh tranh này sẽ có xu hướng đưa giá tương đối trở lại phù hợp với giá tự nhiên.

Lí thuyết về lao động và chủ nghĩa Marx

Marx bị lôi cuốn vào lí thuyết lao động vì ông tin rằng lao động của con người là đặc điểm chung duy nhất được chia sẻ bởi tất cả hàng hóa và dịch vụ trao đổi trên thị trường. Tuy nhiên đối với Marx, hai hàng hóa là không đủ để có số lượng lao động tương đương, thay vào đó, hai hàng hóa phải có cùng số lượng lao động cần thiết về mặt xã hội.

Marx đã sử dụng lí thuyết lao động để đưa ra một phê phán gay gắt chống lại các nhà kinh tế học cổ điển trên thị trường tự do theo truyền thống của Adam Smith. Ông cho rằng, nếu tất cả hàng hóa dịch vụ trong một hệ thống tư bản được bán với giá phản ánh giá trị thực của chúng và tất cả các giá trị được đo bằng giờ lao động thì làm thế nào các nhà tư bản có thể hưởng lợi nhuận trừ khi họ trả cho công nhân ít hơn giá trị lao động thực của họ.

Chính trên cơ sở đó, Marx đã phát triển lí thuyết khai thác của chủ nghĩa tư bản. Các nhà kinh tế học cổ điển không có câu trả lời cho đến khi Cách mạng Chủ nghĩa nổ ra.

(Tài liệu tham khảo: investopedia.com)

TH