Cổ phiếu hạn chế (Restricted Stock) là gì? Đặc điểm
Cổ phiếu hạn chế
Khái niệm
Cổ phiếu hạn chế trong tiếng Anh là Restricted Stock hay Letter Stock.
Cổ phiếu hạn chế là loại cổ phiếu được nắm giữ bởi các cổ đông trong nội bộ công ty (như giám đốc) nhưng chưa đăng kí quyền sở hữu.
Cổ phiếu hạn chế không thể chuyển nhượng và được giao dịch tuân thủ theo các qui định đặc biệt của Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Mỹ (SEC).
Các hạn chế chuyển nhượng nhằm ngăn chặn việc bán cổ phần sớm làm ảnh hưởng xấu đến công ty. Cổ phiếu hạn chế sẽ được bán theo kế hoạch vesting phân cấp.
Đặc điểm của cổ phiếu hạn chế
Cổ phiếu hạn chế trở nên phổ biến vào giữa những năm 2000 khi các công ty bắt buộc phải dành cổ phiếu để khuyến khích nhân viên.
Cổ phiếu hạn chế có thể có thể chuyển nhượng (vesting) khi đáp ứng một số điều kiện nhất định, chẳng hạn như tiếp tục làm việc trong một thời gian hoặc đạt được các chỉ tiêu cụ thể.
Những người trong cuộc sẽ được cung cấp cổ phiếu hạn chế sau hoạt động mua bán và sáp nhập, hoạt động bảo lãnh hay hoạt động mở rộng chi nhánh để ngăn chặn việc bán sớm có thể ảnh hưởng xấu đến công ty.
Một giám đốc điều hành có thể mất cổ phiếu hạn chế nếu như rời công ty, hay không đạt được các mục tiêu hiệu suất của công ty hay cá nhân.
Các qui định của SEC chi phối việc giao dịch cổ phiếu hạn chế được nêu trong Quy tắc 144 của SEC, trong đó mô tả việc đăng kí và giao dịch công khai cổ phiếu hạn chế và các giới hạn về thời gian và khối lượng nắm giữ.
Thuế đối với cổ phiếu hạn chế
Việc đánh thuế cổ phiếu hạn chế rất phức tạp và được điều chỉnh bởi Mục 1244 của Bộ luật Thu nhập Nội bộ (IRC).
Các cổ đông sở hữu cổ phiếu hạn chế phải trả thuế đối với khoản lãi hoặc lỗ được biểu thị bằng chênh lệch giữa giá cổ phiếu vào ngày vesting và ngày bán.
Ngoài ra, cổ phiếu hạn chế phải chịu thuế như thu nhập trong năm vesting. Điều này trái ngược với các quyền mua cổ phiếu bị đánh thuế khi nhân viên thực hiện quyền chọn của mình, chứ không phải khi chuyển nhượng vesting.
Thu nhập từ cổ phiếu hạn chế là giá trị thị trường cổ phiếu tại thời điểm vesting trừ (-) đi giá thực hiện ban đầu của nó (exercise price).
Tuy nhiên, các cổ đông của cổ phiếu hạn chế có thể thực hiện một cuộc bầu cử cho mục đích tính thuế thu nhập bằng cách cho phép cổ đông sử dụng giá vào ngày cấp, chứ không phải ngày vesting.
Hóa đơn thuế phải được thanh toán sớm hơn trong trường hợp này, nhưng có thể thấp hơn đáng kể nếu cổ phiếu tăng giá giữa ngày cấp và ngày vesting.
Rủi ro gặp phải là nếu cổ đông sở hữu cổ phiếu hạn chế rời khỏi công ty trước khi cổ phiếu vesting thì cổ phiếu sẽ bị tịch thu và các khoản thuế đã nộp sẽ không được hoàn trả.
(Theo Investopedia)