USDA: Tiêu thụ cà phê thế giới cao kỷ lục, tồn kho chạm đáy 12 năm
Theo báo cáo mới đây của USDA, sản lượng cà phê toàn cầu trong niên vụ 2023-2024 dự báo đạt 171,4 triệu bao (loại 60 kg/bao), tăng 4,2% tương ứng 6,9 triệu bao so với niên vụ trước.
Sản lượng tăng ở các nước sản xuất cà phê arabica chủ chốt như Brazil, Colombia và Ethiopia dự kiến sẽ bù đắp cho sự sụt giảm ở Indonesia, một trong những quốc gia sản xuất robusta chính ở khu vực Đông Nam Á.
Với dự báo này, sản lượng cà phê arabica toàn cầu trong niên vụ 2023-2024 dự kiến sẽ tăng 9,4 triệu bao lên 97,3 triệu bao. Ngược lại, robusta giảm năm thứ hai liên tiếp xuống còn 74,1 triệu bao so với 76,6 triệu bao của niên vụ trước và là mức thấp nhất trong 4 niên vụ gần đây.
Bên cạnh đó, xuất khẩu cà phê toàn cầu dự kiến tăng 8,4 triệu bao so với niên vụ trước lên 119,9 triệu bao, chủ yếu nhờ các lô hàng tăng cường từ Brazil.
Đồng thời, tiêu thụ cà phê toàn cầu dự báo ở mức kỷ lục 169,5 triệu bao trong niên vụ 2023-2024. Tồn kho cuối vụ dự kiến tiếp tục thắt chặt và giảm xuống chỉ còn 26,5 triệu bao, mức thấp nhất trong 12 năm qua.
Brazil: Trong niên vụ 2023-2024, sản lượng cà phê của Brazil được dự báo tăng 3,7 triệu bao lên 66,3 triệu bao. Chủ yếu là do sản lượng cà phê arabica tăng 5,1 triệu bao lên 44,9 triệu bao.
Cây cà phê arabica tại nhiều vùng sản xuất của Brazil tiếp tục phục hồi sau đợt sương giá nghiêm trọng, nhiệt độ cao và lượng mưa dưới mức trung bình xảy ra vào năm 2021 khiến sản lượng cà phê giảm trong niên vụ 2021-2022 và 2022-2023.
Mặc dù vậy, sản lượng cà phê arabica của Brazil vẫn thấp hơn đáng kể so với mức đỉnh gần 50 triệu bao của các niên vụ được mùa trước đó.
Ở chiều ngược lại, sản lượng cà phê robusta của Brazil được dự báo sẽ giảm lần đầu tiên sau 6 năm tăng trưởng liên tiếp với mức giảm 1,4 triệu bao xuống còn 21,4 triệu bao. Lượng mưa giảm và nhiệt độ thấp trong giai đoạn ra hoa làm giảm sản lượng tại bang Espirito Santo, khu vực sản xuất cà phê robusta chính của Brazil.
Xuất khẩu cà phê nhân của Brazil, nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới dự báo sẽ phục hồi và tăng 7,3 triệu bao so với niên vụ trước lên 39,5 triệu bao, do được thúc đẩy bởi nguồn cung cao hơn và nhu cầu nhập khẩu của Mỹ và EU tăng.
Số liệu được Hiệp hội Những nhà Xuất khẩu Cà phê Brazil (CECAFE) công bố cho thấy, xuất khẩu cà phê nhân của Brazil trong 5 tháng đầu niên vụ 2023-2024 (tháng 7 đến tháng 11/2023) đã tăng 18,7% so với cùng kỳ niên vụ 2022-2023 lên 17,3 triệu bao.
Trong đó, xuất khẩu robusta tăng vọt 420,9% lên 3,4 triệu bao; cà phê arabica không đổi ở mức 13,97 triệu bao.
Việt Nam: Sản lượng cà phê của Việt Nam trong niên vụ 2023-2024 dự báo tăng 300.000 bao so với niên vụ trước lên 27,5 triệu bao, với gần 95% trong số đó là cà phê robusta.
USDA dự báo sản lượng cà phê robusta của Việt Nam trong niên vụ 2023-2024 vào khoảng 26,6 triệu bao, tăng 1,2% so với niên vụ trước; trong khi arabica giảm 11,1% xuống còn 880.000 bao.
Tuy nhiên, tổng nguồn cung của Việt Nam vẫn thấp hơn niên vụ trước do lượng tồn kho trong niên vụ 2022-2023 chuyển sang chỉ đạt 390.000 bao, giảm mạnh từ mức 3,58 triệu bao của niên vụ 2021-2022.
Do đó, xuất khẩu cà phê nhân của Việt Nam được dự báo sẽ giảm 2,4 triệu bao xuống còn 23 triệu bao. Tồn kho cuối niên vụ 2023-2024 dự kiến vẫn ở mức thấp là 359.000 tấn.
Colombia: Sản lượng cà phê arabica của Colombia được dự báo tăng 800.000 bao lên 11,5 triệu bao nhờ năng suất cao hơn. Mặc dù vậy, sản lượng của Colombia vẫn thấp hơn gần 15% so với mức trung bình hàng năm khi người trồng cà phê hạn chế sử dụng phân bón do giá cao.
Colombia chủ yếu xuất khẩu cà phê sang Mỹ và EU, xuất khẩu cà phê của nước này được dự báo tăng 1,2 triệu bao lên 10,8 triệu bao do nhu cầu mạnh.
Indonesia: Sản lượng cà phê của Indonesia được dự báo giảm 2,2 triệu bao so với niên vụ trước, xuống còn 9,7 triệu bao trong niên vụ 2023-2024.
Chủ yếu là do sản lượng robusta giảm 2,1 triệu bao xuống còn 8,4 triệu bao. Mưa quá nhiều trong giai đoạn phát triển của trái cà phê đã làm giảm sản lượng ở các vùng đất thấp của Nam Sumatra và Java, nơi chiếm khoảng 75% diện tích robusta của Indonesia. Sản lượng cà phê arabica cũng được dự báo giảm nhẹ xuống 1,3 triệu bao.
Với dự báo này, xuất khẩu cà phê nhân của Indonesia dự kiến giảm 2,7 triệu bao xuống chỉ còn 5 triệu bao trong niên vụ 2023-2024.
Ấn Độ: Tại Ấn Độ, sản lượng cà phê được dự báo gần như không thay đổi so với niên vụ trước, ở mức 6 triệu bao. Xuất khẩu đậu được dự báo tăng 300.000 bao lên 4,3 triệu bao do tồn kho giảm nhẹ.
Niên vụ 2023-2024, sản lượng cà phê arabica của Ấn Độ dự báo giảm 200.000 bao xuống còn 1,4 triệu bao, chủ yếu do đợt hạn hán kéo dài từ tháng 12/2022 đến tháng 3/2023 và sau đó là hoạt động yếu của những cơn mưa gió mùa. Trong khi sản lượng robusta dự kiến sẽ tăng 300.000 bao lên 4,5 triệu bao nhờ năng suất cao hơn.
Nhập khẩu tăng ở hầu hết các nước tiêu thụ chính trong niên vụ 2023-2024
Nhìn chung nhập khẩu cà phê của hầu hết thị trường tiêu thụ chính đều được dự báo tăng trong niên vụ 2023-2024.
USDA dự báo nhập khẩu cà phê nhân của Liên minh châu Âu (EU) sẽ phục hồi và tăng hơn 2,5 triệu bao so với niên vụ trước lên mức kỷ lục 47 triệu bao trong niên vụ 2023-2024, chủ yếu do xuất khẩu mạnh hơn từ Brazil. Trong khi nhập khẩu cà phê rang và hòa tan không đổi ở mức 1,4 triệu bao và 3,7 triệu bao.
Nhập khẩu cà phê của EU chủ yếu là cà phê nhân chưa rang, chiếm khoảng 90% tỷ trọng. Các nhà cung cấp hàng đầu của khu vực trong niên vụ 2022-2023 (tháng 10 đến tháng 9) gồm Brazil (32%), Việt Nam (26%), Uganda (7%) và Honduras (6%).
EU đã nhập khẩu kỷ lục 49,1 triệu bao vào niên vụ 2021-2022, nhưng giảm 2,6 triệu bao trong vụ 2022-2023 do nhập khẩu từ Brazil giảm mạnh dù được bù đắp phần nào bởi mức tăng từ Việt Nam.
Việc EU nhập khẩu nhiều cà phê từ Việt Nam và giảm mua từ Brazil, cho thấy các nhà rang xay có xu hướng sử dụng nhiều robusta hơn. Hai quốc gia này chiếm 54 - 58% tổng lượng cà phê nhân nhập khẩu của EU trong 10 năm qua, để lại thị phần hạn chế cho các nhà cung cấp khác.
Trong cùng thời gian này, xuất khẩu cà phê của Uganda sang EU tăng 1,2 triệu bao lên tổng cộng 3,4 triệu bao do sản lượng tăng; trong khi Colombia giảm 500.000 bao xuống 1,8 triệu bao do sản lượng giảm.
Tương tự, nhập khẩu cà phê đã rang của EU chỉ đạt 1,4 triệu bao trong niên vụ 2022-2023, giảm so với mức kỷ lục 2,1 triệu bao của cách đây 4 năm do nhập khẩu từ Thụy Sĩ giảm. Các nhà cung cấp cà phê đã rang hàng đầu vào EU bao gồm Thụy Sĩ (chiếm 77%) và Vương quốc Anh (13%).
Tuy nhiên, nhập khẩu cà phê hòa tan của EU tăng 300.000 bao lên 3,7 triệu bao trong niên vụ 2022-2023. Các nhà cung cấp cà phê hòa tan hàng đầu cho EU bao gồm Vương quốc Anh (34%), Việt Nam (12%), Ấn Độ (12%) và Ecuador (10%).
Trong khi nhập khẩu từ Anh gần như không thay đổi ở mức 1,3 triệu bao trong một thập kỷ qua, thì nhập khẩu từ Ấn Độ và Việt Nam tăng khoảng 300.000 bao, đạt tổng cộng trên 400.000 bao mỗi nước.
Cũng trong báo cáo này, USDA điều chỉnh hạ ước tính sản lượng cà phê toàn cầu trong niên vụ 2022-2023 xuống còn 164,5 triệu bao, giảm 5,5 triệu bao so với dự báo đưa ra vào tháng 6/2023. Tương tự, xuất khẩu cũng giảm 4,9 triệu bao so với dự báo trước xuống mức 111,6 triệu bao và tồn kho thấp hơn 4 triệu bao, ở mức 27,6 triệu bao.
Sản lượng giảm tại Việt Nam, Colombia, kéo theo xuất khẩu đi xuống là nguyên nhân chính cho sự điều chỉnh này. Bên cạnh đó, USDA điều chỉnh tồn kho cà phê của EU giảm 3,3 triệu bao so với dự báo trước xuống còn 9,3 triệu bao trong niên vụ 2022-2023, do mức tiêu thụ mạnh hơn dự đoán.