|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Nghịch lý gạo Việt mượn mác ngoại

07:14 | 05/04/2017
Chia sẻ
Việt Nam là một nước xuất khẩu (XK) gạo hàng đầu thế giới, ấy vậy mà mấy năm gần đây, nhiều loại gạo được trồng tại Đồng bằng sông Cửu Long nhưng lại phải “khoác” lên mình một thương hiệu ngoại như: Thái Lan, Campuchia cho đến Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản... bỗng trở nên hút khách cho dù giá bán cao hơn so với gạo đặc sản trong nước.

Nghịch lý đau lòng này không chỉ diễn ra ở những điểm kinh doanh nhỏ lẻ mà ngay cả các hệ thống siêu thị lớn cũng phải mượn mác ngoại.

Thua ngay trên sân nhà

Điều này khiến dư luận bức xúc cho rằng các doanh nghiệp (DN) sản xuất gạo trong nước vẫn còn giữ nếp nghĩ không quá coi trọng thương hiệu, thậm chí bán rẻ thương hiệu nên bây giờ phải trả cái giá khá đắt. Và không thể “mất mặt” hơn khi ở một quốc gia XK gạo hàng đầu thế giới lại phải “mượn” thương hiệu nước ngoài để bán được gạo nội trên chính đất nhà mình. Từ chuyện này, có thể lấy bài học về việc xây dựng và phát triển thương hiệu gạo XK của Thái Lan (vốn đang được gạo Việt gắn mác nhiều nhất) cho các nhà sản xuất gạo Việt cùng suy ngẫm.

Gạo thơm Thái Lan có lịch sử trên 100 năm. Năm 1959, Thái Lan chính thức công bố các giống lúa gạo nổi tiếng - Thai Hom Mali Rice, đồng thời xây dựng bộ tiêu chuẩn chất lượng cho các loại gạo. Theo đó, có năm điều tạo nên sự khác biệt gồm: Tiêu đề thương hiệu, đảm bảo cho người đọc hiểu được sản phẩm xuất xứ từ Thái Lan; tiêu chí về độ tinh khiết; mã vạch; nguồn gốc về bao bì; logo, màu sắc, nhận diện bao bì đều phải thể hiện sự thống nhất.

Gạo “Thai Hom Mali” của Thái Lan với tên thương hiệu hiện tại “Khao Hom Ma-li thung Kula Ronghai” là sản phẩm đầu tiên ở Đông Nam Á được đăng ký theo chương trình bảo hộ chỉ dẫn địa lý (PGI) của Liên minh châu Âu.

Trong chiến lược tuyên truyền hàng XK, “Gạo Thái” được đặt lên vị trí hàng đầu và Thái Lan đổ nhiều công sức, kể cả tài chính vào công tác quảng cáo. Tất cả các cơ hội như: Festival, hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước đều được Thái Lan tận dụng tối đa. Ngoài ra, Thái Lan còn hợp tác với các nước, nhất là các nước ASEAN, lập ra các tổ chức như: Hiệp hội lúa gạo, hợp tác đối tác trao đổi lúa gạo, hiệp hội tiêu thụ gạo... nhằm tăng cường hợp tác trao đổi kinh nghiệm với các nước. Chính vì vậy, hiện “Gạo Thái” đã trở thành thương hiệu nổi tiếng trên toàn cầu.

Trong khi đó, Việt Nam hiện có hơn 200 DN với quy mô trung bình và lớn tham gia vào hệ thống thương mại gạo nhưng việc sử dụng thương hiệu trên thị trường, nhất là thị trường XK còn rất hạn chế. Trong bối cảnh thị trường quốc tế với mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, áp lực cạnh tranh đối với gạo Việt không chỉ có giá mà còn cả chất lượng và thương hiệu sản phẩm.

nghich ly gao viet muon mac ngoai 18235
Gạo Việt gắn mác ngoại. Ảnh: GDTD.

Cần sự liên kết chặt chẽ

Được biết, theo mục tiêu đề ra của ngành nông nghiệp, phấn đấu đến năm 2020, hình ảnh gạo Việt được quảng bá, giới thiệu rộng rãi trong nước và đến ít nhất 20 thị trường XK; thương hiệu gạo quốc gia được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ dưới hình thức nhãn hiệu chứng nhận tại Việt Nam và ít nhất 50 quốc gia; phấn đấu đạt 20% sản lượng gạo XK mang thương hiệu gạo Việt Nam.

Đến năm 2030, các vùng sản xuất lúa gạo XK ổn định, hiệu quả và bền vững, đưa gạo Việt Nam trở thành thương hiệu hàng đầu thế giới về chất lượng, an toàn thực phẩm; phấn đấu đạt 50% sản lượng gạo XK mang thương hiệu gạo Việt Nam, trong đó, 30% tổng sản lượng gạo XK là nhóm gạo thơm và gạo đặc sản.

Theo đại diện Viện Nghiên cứu Thương mại, đây là việc làm cần thiết, nhằm tái cấu trúc ngành lúa gạo về sản phẩm, thị trường, bảo đảm sự phát triển bền vững, hiệu quả. Việc xây dựng thương hiệu sẽ gắn với chuỗi giá trị sản phẩm, xây dựng vùng sản xuất, ứng dụng khoa học – công nghệ về giống, kỹ thuật, chế biến, bảo quản, đóng gói và phân phối, tiếp thị... Bởi hiện các giải pháp căn cơ và chương trình thực hiện cũng đã được xây dựng cụ thể. Điều quan trọng là giám sát triển khai như thế nào để Đề án đi vào thực tế cuộc sống của nông dân, của DN và tất cả các tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị gạo.

Có thể nói, không thể xây dựng thương hiệu quốc gia cho gạo Việt Nam nếu không có sự liên kết giữa Chính phủ, các bộ, ngành liên quan, nông dân và DN. Trong đó, DN là chủ thể của quá trình xây dựng. Chính phủ, các bộ, ngành có chính sách, giải pháp cụ thể để khuyến khích, hỗ trợ DN chủ động, tích cực tham gia hiệu quả vào quá trình này.

Vì sao hạt gạo Việt lại phải “đội lốt” gạo ngoại để thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng trong nước? Điều này không chỉ đặt ra nhu cầu bức thiết về xây dựng và phát triển thương hiệu gạo Việt mà còn là thách thức lớn đối với cuộc vận động “người Việt dùng hàng Việt”, buộc các nhà quản lý phải nhìn nhận, đánh giá và hoạch định chiến lược, tiếp cận thị trường cho các mặt hàng nông sản Việt Nam trong tương lai.

Xuân Huy