|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

ICO: Giá cà phê robusta tăng lên mức cao nhất 30 năm

10:41 | 15/02/2024
Chia sẻ
Báo cáo của Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) cho thấy, giá cà phê robusta thế giới đã tăng lên mức cao nhất trong 30 năm do lo ngại nguồn cung thắt chặt tại Việt Nam, nước xuất khẩu robusta lớn nhất thế giới. Trong khi đó, xuất khẩu cà phê toàn cầu tiếp tục tăng sau khi Brazil liên tục đẩy mạnh bán ra.

Giá cà phê robusta chạm đỉnh 30 năm

Giá cà phê thế giới được theo dõi và tổng hợp bởi ICO (I-CIP) đạt bình quân 176,4 US cent/pound (khoảng 171,1 – 185,5 US cent/pound) trong tháng đầu tiên của năm 2024, tăng nhẹ 0,4% so với tháng trước và tăng 12,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Đây cũng là mức giá cao nhất đạt được trong 10 tháng trở lại đây trong bối cảnh giá cà phê robusta tăng lên ngưỡng cao nhất kể từ năm 1994 đã bù đắp cho sự sụt giảm của cà phê arabica.

Cụ thể, giá cà phê robusta tăng 9,6% so với tháng trước lên mức bình quân 148,5 US cent/pound, có thời điểm chạm ngưỡng 153,3 US cent/pound, mức cao nhất trong gần 30 năm.

Giá cà phê robusta được thúc đẩy bởi những lo ngại liên tục về tình hình nguồn cung, đặc biệt là ở Indonesia và Việt Nam, đồng thời tồn kho trên sàn ICE thấp kỷ lục.

Tại Việt Nam, các thương nhân vẫn đang giữ lại hạt cà phê với kỳ vọng giá cao hơn, điều này càng làm trầm trọng thêm các vấn đề về nguồn cung vốn đang thắt chặt tại quốc gia sản xuất robusta lớn nhất thế giới này.

Ngược lại, giá của nhóm cà phê arabica Colombia và arabica khác giảm 2,4% và 3,5% so với tháng trước, đạt lần lượt là 205,6 US cent/pound và 203,3 US cent/pound. Giá arabica Brazil cũng giảm 3,2% xuống còn trung bình 179,3 US cent/pound.

Diễn biến giá cà phê thế giới từ tháng 1/2022 đến tháng 1/2024

Nguồn: ICO

Trên thị trường kỳ hạn New York, giá cà phê arabica giảm 1,9% xuống còn 183,1 US cent/pound; trong khi robusta trên sàn London tăng mạnh 9,6% lên 135,8 US cent/pound. Chênh lệch giá giữa hai sàn đã giảm 24,8% xuống chỉ còn 47,2 US cent/pound trong tháng 1.

Tính đến cuối tháng 1, tồn kho cà phê arabica được chứng nhận trên sàn giao dịch hàng hoá New York tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất từng ghi nhận được sau khi giảm 1,5% xuống chỉ còn 0,27 triệu bao (loại 60 kg/bao). Tồn kho robusta trên sàn London cũng giảm 15,4% xuống 0,48 triệu bao.

Tồn kho cà phê được chứng nhận trên sàn New York và London tính đến cuối tháng 1/2024

 Nguồn: ICO 

Xuất khẩu cà phê toàn cầu vẫn trong xu hướng tăng

ICO cho biết, xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 12/2023 đã tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước, lên 12,2 triệu bao. Qua đó đưa tổng xuất khẩu cà phê trong 3 tháng đầu tiên của niên vụ hiện tại 2023-2024 lên mức 32,4 triệu bao, tăng 6,8% so với cùng kỳ niên vụ trước.

Trong đó, xuất khẩu cà phê nhân xanh đạt kỷ lục gần 10,9 triệu bao vào tháng 12, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước. Đà tăng xuất khẩu gần đây của cà phê nhân xanh chủ yếu phản ánh các điều kiện sản xuất đã trở lại bình thường sau một năm sụt giảm.

Như vậy, tổng xuất khẩu cà phê nhân xanh toàn cầu trong 3 tháng đầu tiên của niên vụ 2023-2024 đã đạt 29,2 triệu bao, tăng 6,8% so với cùng kỳ niên vụ trước.

Theo số liệu của ICO, xuất khẩu cà phê nhân xanh arabica Brazil đã tăng 15% trong tháng 12 và tăng 7,4% trong 3 tháng đầu niên vụ hiện tại, đạt tổng cộng gần 11 triệu bao.

Tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ này đến từ mức tăng 19,3% trong xuất khẩu cà phê arabica của Brazil, nhà sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới, lên 3,2 triệu bao trong tháng 12/2023 so với 2,7 triệu bao của cùng kỳ năm trước.

Xuất khẩu arabica Colombia cũng ghi nhận mức tăng trưởng 7,9% trong tháng 12 và tăng tới 14,3% trong 3 tháng đầu niên vụ 2023-2024 lên 3,2 triệu bao.

Tiếp đến, các lô hàng arabica khác tăng 19,9% trong tháng 12 và tăng 10,5% trong 3 tháng đầu niên vụ 2023-2024 lên 4,1 triệu bao. Mức tăng trưởng hai con số của khu vực chủ yếu là do xuất khẩu của Peru và Mexico tăng lần lượt 48,3% và 75% trong tháng 12.

Các điều kiện sản xuất tại Peru đã trở lại bình thường trong niên vụ cà phê 2023-2024 sau khi sụt giảm vào niên vụ trước. Trong khi hoạt động sản xuất tại Mexico cũng đang diễn ra tương đối thuận lợi.

Đáng chú ý, xuất khẩu cà phê nhân xanh robusta tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước lên gần 4,7 triệu bao trong tháng 12. Đây là khối lượng xuất khẩu lớn nhất trong tháng 12 kể từ trước đến nay, vượt qua kỷ lục trước đó là 4,2 triệu bao được thiết lập vào năm 2022.

Tuy nhiên, mức giảm 8,8% vào đầu niên vụ 2023-2024 đã khiến cho tổng xuất khẩu cà phê robusta từ tháng 10 đến tháng 12/2023 chỉ tăng 2,9%, ở mức 10,9 triệu bao.

Động lực chính cho sự tăng trưởng này đến từ Brazil, quốc gia Nam Mỹ đã vận chuyển hơn 0,5 triệu bao robusta ra thị trường quốc tế trong tháng 12, tăng đột biến 806,2% so với cùng kỳ năm 2022.

Xuất khẩu cà phê nhân xanh trong 3 tháng đầu niên vụ 2023-2024 (Tháng 10 và tháng 12/2023)

 Nguồn: ICO 

Không chỉ cà phê nhân, xuất khẩu cà phê hòa tan cũng tăng mạnh 25,7% lên 1,24 triệu bao trong tháng 12. Tính từ đầu niên vụ đến nay đã có hơn 3 triệu bao cà phê hòa tan được xuất khẩu trên thế giới, tăng 8,2% so với cùng kỳ niên vụ trước.

Tỷ trọng cà phê hòa tan trong tổng xuất khẩu cà phê là 9,3%, tăng nhẹ so với mức 9,2% của cùng kỳ niên vụ 2022-2023. Brazil, nước xuất khẩu cà phê hòa tan lớn nhất đã vận chuyển 0,35 triệu bao ra thị trường quốc tế trong tháng 12.

Riêng xuất khẩu cà phê đã rang tiếp tục giảm 15% trong tháng 12 và sau 3 tháng đầu niên vụ 2023-2024 chỉ đạt 0,17 triệu bao, giảm so với 0,19 triệu bao của cùng kỳ niên vụ trước.

Cơ cấu chủng loại cà phê xuất khẩu toàn cầu trong 3 tháng đầu niên vụ 2023-2024

 Nguồn: ICO 

Xuất khẩu cà phê của khu vực Nam Mỹ tăng mạnh

Trong tháng 12, xuất khẩu cà phê các loại của khu vực Nam Mỹ đã tăng 25,4% so với cùng kỳ năm trước lên 5,7 triệu bao. Sự gia tăng mạnh mẽ này chủ yếu đến từ Brazil và Peru, hai quốc gia sản xuất cà phê hàng đầu trong khu vực đã tăng lần lượt là 31,7% và 48,3%.

Với Brazil, mức nền so sánh tương đối thấp của cùng kỳ năm 2022 (–20,5%) và nguồn cung hạn chế từ khu vực châu Á và châu Đại Dương đang là động lực chính cho mức tăng trưởng hai con số của nước này. Đặc biệt là đối với cà phê robusta, loại cà phê mà Brazil đóng vai trò là nhà sản xuất chính trong những tháng gần đây.

Còn tại Peru, điều kiện thời tiết thuận lợi và bất ổn xã hội được giải quyết là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự mở rộng xuất khẩu của nước này.

Xuất khẩu cà phê của các khu vực trong 3 tháng đầu niên vụ 2023-2024

 Nguồn: ICO 

Xuất khẩu cà phê các loại từ khu vực Trung Mỹ và Mexico cũng tăng 6% lên 0,6 triệu bao trong tháng 12. Trong đó, xuất khẩu của Guatemala, Honduras và Mexico tăng lần lượt là 30,9%, 8,6% và 31,2%, bù đắp cho sự sụt giảm 37,7%, 61,2% và 14,4% của Costa Rica, El Salvador và Nicaragua.

Với kết quả này, xuất khẩu cà phê của khu vực Trung Mỹ và Mexico đã tăng 3,6% trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 12/2023, đạt gần 1,5 triệu bao.

Ngược lại, xuất khẩu cà phê từ khu vực châu Phi giảm 0,5% trong tháng 12 và giảm 4,2% sau 3 tháng đầu niên vụ 2023-2024, đạt tổng cộng hơn 3 triệu bao.

Tại các nước sản xuất chính trong khu vực, xuất khẩu của Bờ Biển Ngà, Kenya và Tanzania tăng lần lượt 52%, 40,8% và 56,6% trong tháng 12. Trong khi nước xuất khẩu cà phê lớn nhất châu Phi là Uganda chứng kiến sự sụt giảm 4,2%.

Còn tại khu vực châu Á và châu Đại Dương, xuất khẩu cà phê các loại từ khu vực đã tăng 5,7% lên 4,9 triệu bao trong tháng 12. Xuất khẩu của ba quốc gia sản xuất chính trong khu vực là Indonesia, Ấn Độ và Việt Nam đều tăng trong tháng vừa qua, với mức tăng lần lượt là 8,5%, 3,9% và 4,8%.

Đối với Indonesia, đây là tháng có mức tăng trưởng tích cực đầu tiên kể từ tháng 8/2023. Vụ thu hoạch cà phê năm 2023-2024 của Indonesia ước tính giảm 16,6% so với niên vụ trước xuống còn 10 triệu bao, do mưa quá nhiều trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 5/2023 đã gây thiệt hại đối với trái cà phê.

Tốc độ tăng trưởng tương đối mạnh của Indonesia là do xuất khẩu cà phê hòa tan tăng hơn 12 lần lên gần 0,5 triệu bao trong tháng 12/2023 từ 0,04 triệu bao của cùng kỳ năm 2022.

Mặc dù tăng trong tháng vừa qua nhưng nhìn chung xuất khẩu cà phê của khu vực châu Á và châu Đại Dương đã giảm đáng kể trong những tháng đầu niên vụ 2023-2024.

Hoàng Hiệp

Vàng, đô và lãi suất: Ý nghĩa như thế nào với kinh tế Việt Nam?
Tỷ giá USD/VND đã tăng 4,5% so với đầu năm, cao hơn 1% so với mức mất giá bình quân dưới 3,5% trong gần 1 thập kỷ. Điều này đã gây sức ép lớp lên các nhà điều hành phải đưa ra một loạt các chính sách kết hợp nhằm ngăn chặn sự giảm giá của đồng VND, tạo ra những tác động nhất định lên thị trường tài chính.