Giá bông thế giới thấp nhất 11 năm, nhiều cường quốc trồng bông châu Phi gặp khó
Giá bông thế giới thấp nhất 11 năm nay
Theo Thương vụ Việt Nam tại Algerie, COVID-19 khiến giảm giá nguyên liệu và cầu quốc tế do suy thoái kinh tế gây ra; sản xuất công nghiệp tại những nước như Mỹ, Trung Quốc và châu Âu giảm.
Giá bán bông cho niên vụ 2020/2021 là 200 franc CFA/kg (1 USD = 584,50 FCFA), giảm 75 franc CFA so với niên vụ 2019/2020. Nguyên nhân là giá bông quốc tế ở mức thấp nhất kể từ 11 năm nay.
Theo ước tính của Ủy ban tư vấn bông quốc tế, tính từ đầu năm 2020, giá bông đã giảm khoảng 18% do tác động của đại dịch COVID-19 với việc đóng cửa của các nhà máy dệt, nhất là sự sụt giảm mức cầu 12% trong cả năm 2020 sau khi một nửa dân số thế giới bị cách li cùng với sự suy thoái của kinh tế thế giới.
Ngành công nghiệp dệt chậm lại, nhất là ở châu Á và giá bông bị ảnh hưởng nặng nề do giá dầu lửa thấp, làm cho các loại sợi tổng hợp có giá bán cạnh tranh hơn các loại sợi tự nhiên.
Giá bông Mali giảm do COVID-19
Mali phụ thuộc vào xuất khẩu một số loại nông sản, đặc biệt là bông. Với diện tích trồng 740.000 ha, bông nuôi sống hơn 3 triệu người.
Sản lượng bông của Mali đạt 700.000 tấn/năm (1,36 triệu bao), gần như toàn bộ để xuất khẩu (1,33 triệu bao). Công ty Phát triển bông, sợi Mali (CMDT) là công ty Nhà nước thành lập năm 1974 để quản lý ngành bông. CMDT phụ trách việc tổ chức sản xuất và kinh doanh bông trên toàn lãnh thổ Mali.
Trước tình hình giá bông giảm do COVID-19, để khuyến khích sản xuất bông, Bộ trưởng Nông nghiệp Mali, ông Baba Moulaye Haidara, cho biết chính phủ vẫn duy trì trợ cấp 10 tỉ Franc CFA cho các nhà sản xuất bông niên vụ 2020-2021.
Năm nay, công ty bông sợi CMDT cùng các đối tác trong ngành đã quyết định định hướng lại việc sử dụng khoản tiền này. Thay vì trước đây dành cho việc mua vật tư đầu vào, năm nay khoản trợ cấp 10 tỷ FCFA sẽ dùng để thưởng cho người sản xuất với tỷ lệ 15 FCFA/1 kg bông.
Sản xuất bông tại Burkina Faso giảm mạnh
Từng là nước xuất khẩu bông đứng đầu châu Phi, Burkina Faso hiện tụt xuống vị trí thứ ba châu Phi, sau Mali và Benin.
Trong niên vụ 2018/2019, sản xuất bông của nước này chỉ đạt 436.000 tấn, giảm 30% so với niên vụ 2017/2018, trong khi Mali và Benin đạt khoảng 700.000 tấn/nước. Đây là vụ mùa thứ ba liên tiếp sản lượng bông Burkina Faso giảm mạnh.
Theo nhận định của Lãnh đạo Liên minh các nhà sản xuất bông của Burkina Faso (UNPCB), nguyên nhân giảm ngoài thời tiết kém thuận lợi còn do nhiều yếu tố khác như chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào kém (đặc biệt là giống và phân bón), kỹ thuật canh tác, sản xuất không phù hợp và cơ cấu tổ chức ngành còn nhiều bất cập.
Ngoài ra, sau nhiều năm giảm nguồn thu, nhiều hộ trồng bông tại Burkina Faso đã rơi vào cảnh nợ xấu, nguồn thu không đủ để trả lương nhân công và phải chuyển hướng trồng trọt hoặc tìm kế mưu sinh khác. Điều này dẫn đến tình trạng hiện có hơn 200.000 ha đất canh tác chưa gieo hạt trên toàn Burkina Faso.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới chịu khủng hoảng trầm trọng do tác động của COVID-19, ngành bông Burkina Faso dự báo gặp nhiều khó khăn và không thể đạt được mục tiêu sản xuất 600.000 tấn trong niên vụ 2019/2020. Ước tính sản lượng thu hoạch năm nay chỉ đạt tối đa khoảng 500.000 tấn.
Bông châu Phi có chất lượng tốt, giá thành hợp lý
Theo Thương vụ Việt Nam tại Algerie, bông châu Phi được đánh giá có chất lượng tốt, giá thành hợp lý, phù hợp với yêu cầu sản xuất vải sợi của Việt Nam.
Phần lớn bông của châu Phi được hái bằng tay, tỷ lệ xơ ngắn thấp, tỷ lệ đồng đều về sợi cao, đặc biệt về cường lực và độ chín tương đối tốt.
Bên cạnh đó là ưu thế về giá cả, sản phẩm bông của châu Phi có tính cạnh tranh hơn so với các thị trường khác.
Tuy nhiên, do sản lượng thấp nên quá trình phân loại bông của châu Phi chưa cao như ở Mỹ hay một số thị trường khác, tỷ lệ tạp chất cao. Đặc biệt là bông ở Đông Phi thường có hàm lượng đường cao hơn nước khác, tác động đến quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm.
Theo thương vụ, nhiều doanh nghiệp của Việt Nam hiện vẫn phải nhập qua trung gian (trader), là các công ty thương mại của Pháp, Thụy Sỹ, Ấn Độ chứ không mua trực tiếp từ nhà sản xuất, dẫn đến giá thành cao.
Năm 2019, Việt Nam đã nhập khẩu bông các loại từ 17 nước trên tổng số 54 quốc gia châu Phi, tổng kim ngạch nhập đạt 203,5 triệu USD, giảm 19% so với năm 2018.
Các nước cung cấp chính chủ yếu nằm ở Tây và Trung Phi và một số nước Đông Phi như Benin (47,33 triệu USD), Bờ Biển Ngà (45,81 triệu USD), Burkina Faso (31,76 triệu USD), Mali (28,03 triệu USD), Togo (13,49 triệu USD), Cameroon (10,75 triệu USD), Uganda (6,36 triệu USD), Zimbabwe (5,13 triệu USD), Mozambique (4,25 triệu USD), Nam Phi (3,4 triệu USD), Tanzania (3 triệu USD), Nigeria (1,7 triệu USD), Zambia (1,17 triệu USD)...