Điều gì xảy ra khi các hiệp định thương mại đổ vỡ?
Đó là nhận định của ông Nguyễn Ánh Dương, Trưởng ban chính sách kinh tế vĩ mô, Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung Ương (CIEM) tại Diễn đàn Hội nhập kinh tế quốc tế TP HCM 2018 với chủ đề "Tạo thuận lợi thương mại và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp".
Theo ông Dương, trước khi Tổng thống Donald Trump nhậm chức thì trường hợp các FTA đổ vỡ có xác suất thấp lắm. Bởi cả thể giới vẫn tin tưởng vào cam kết đa phương nên việc quốc gia nào đó rút khỏi hiệp định đã ký kết thì rất là khó khăn. Nhưng khi ông Trump cầm quyền thì cách tiếp cận đã khác. Mỹ có thể rút ra khỏi bất cứ FTA nào đã ký kết.
Mỹ đã rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Công ước Paris và thậm chí rút khỏi Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Điều này có thể tạo ra một suy nghĩ đó là chủ nghĩa đơn phương có khả năng tốt hơn đa phương.
"Khi mà suy nghĩ ấy trở nên phổ biến thì một quốc gia nào đó xem xét rút khỏi các FTA là có khả năng xảy ra. Việt Nam chưa bao giờ gặp trường hợp FTA bị hủy hoặc không có hiệu lực. Do đó, việc chính phủ bảo vệ thế nào khi FTA đổ vỡ là một câu hỏi khó", ông Dương cho hay.
"Tôi nghĩ có hai trường hợp xảy ra. Thứ nhất về thuế, nếu FTA hết hiệu lực đương nhiên hàng hóa của Việt Nam sẽ không được hưởng ưu đãi về thuế. Thế nhưng đối với hoạt động đầu tư thì phức tạp hơn. Bởi khoản đầu tư có thể kéo dài 5 năm , 10 năm, 50 năm".
Theo ông Dương, FTA hết hiệu lực thì thông thường sẽ có điều khoản xem xét khoản đầu tư có được hưởng ưu đãi hay không.
Vì sao Việt Nam ký nhiều FTA trong khi doanh nghiệp chưa thực sự thấy lợi ích rõ ràng?
Cũng tại diễn đàn, theo ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương, trong thời gian qua, khi Việt Nam ngày càng ký kết nhiều FTA, băn khoăn được không ít doanh nghiệp đặt ra là tại sao Việt Nam lại ký nhiều FTA như vậy, trong khi bản thân doanh nghiệp chưa thực sự cảm thấy được hưởng lợi rõ ràng từ các FTA.
Ông Khanh cho biết, trước năm 2007, Việt Nam chỉ có hai FTA là ASEAN - Trung Quốc và ASEAN - Hàn Quốc. Khi đó, Việt Nam ký kết FTA Với tư cách thành viên của ASEAN. Sau năm 2007, số lượng FTA Việt Nam ký kết tăng lên nhiều như FTA với Nhật Bản, Chile…
Năm 2015, được coi là năm “bội thu” về FTA khi Việt Nam cùng lúc kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ trong Hiệp định TPP, kết thúc đàm phán với EU ở FTA Việt Nam - EU và kết thúc đàm phán với Nga trong khuôn khổ FTA Việt Nam-Liên minh kinh tế Á - Âu. Cũng trong năm 2015, Việt Nam kết thúc đàm phán FTA với Hàn Quốc.
Đến nay, Việt Nam là một trong những nước tham gia nhiều FTA nhất thế giới khi có 17 FTA. Trong đó, 10 FTA đã ký kết, có hiệu lực; 2 FTA đã ký kết, chưa có hiệu lực; 2 FTA đã kết thúc đàm phán và 3 FTA đang trong quá trình đàm phán.
”Tại sao Việt Nam lạị ký kết nhiều FTA đến thế? Trước đây, trong quan hệ thương mại, khoảng 60 - 70% Việt Nam làm ăn với khu vực Đông Á nhưng kết quả thường thiệt, thua lỗ lớn.
Điển hình, năm 2017, cán cân thương mại của Việt Nam với khu vực Đông Á thâm hụt gần 70 tỉ USD, trong đó riêng khu vực ASEAN chiếm 65 tỉ USD. Việc tham gia nhiều FTA, có quan hệ tốt hơn với một số đối tác ở các khu vực khác góp phần giúp Việt Nam cân bằng lại cán cân thương mại bị thâm hụt”, ông Khanh cho hay.
Ông Khanh cho biết thêm, việc tham gia các FTA đã giúp xuất khẩu hàng hóa Việt Nam tăng mạnh. Bằng chứng là năm 1995, xuất khẩu mới đạt 5,4 tỉ USD thì năm 2000 đạt14 tỉ USD. Đến năm 2007, Việt Nam xuất khẩu trên 48 tỉ USD và mới nhất ngay năm 2017, con số này đã lên tới trên 213 tỉ USD. Không thể phủ nhận giá trị mà các FTA đem lại cho Việt Nam.
Điển hình ngành dệt may, khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, nếu Việt Nam không phải thành viên của WTO, thuế quan áp dụng lên hàng may mặc thành phẩm bằng 150% so với thành viên WTO; còn nếu là thành viên thì thuế quan áp dụng thành phẩm trung bình là 25%. Nếu có FTA với Hoa Kỳ, mức thuế sẽ giảm chỉ còn 0-5% so với mức 25%.
Ngoài ra, các FTA còn đem lại nhiều lợi ích khác như bảo đảm khả năng tiếp cận bình đẳng. Trong các FTA, nhất là FTA thế hệ mới rất quan tâm đến bình đẳng.
Điều này đặt ra yêu cầu Nhà nước phải tạo bình đẳng trong nội địa, giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân,… từ đó giúp doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn lực bình đẳng hơn. Các FTA còn giúp Việt Nam hoàn thiện cơ sở hạ tầng, thu hút vốn đầu tư tốt hơn; thúc đẩy cải cách hành chính; xóa bỏ rào cản gia nhập thị trường…