|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Quốc tế

Chứng khoán Mỹ bật tăng phiên đầu tháng 7 dù tin tức vĩ mô tiêu cực

07:51 | 02/07/2022
Chia sẻ
Thị trường chứng khoán Mỹ đi lên trong phiên đầu tiên của quý III sau khi S&P 500 khép lại nửa đầu năm tồi tệ nhất kể từ 1970. Tính chung cả tuần qua, các chỉ số đều giảm điểm.

Các chỉ số chứng khoán Mỹ hồi phục trong phiên 1/7 sau nửa đầu năm thê thảm.

Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones tăng gần 322 điểm, tương đương 1,05%, và đóng cửa ở 31.097 điểm. S&P 500 và Nasdaq Composite đi lên lần lượt 1,06% và 0,9%.

Cổ phiếu doanh nghiệp xây dựng diễn biến khả quan với PulteGroup thêm 6,5%, Lennar và D.R. Horton cùng tăng trên 5%. McDonald’s dẫn đầu đà đi lên của Dow Jones với mức tăng 2,5%. Coca-Cola và Boeing cùng thêm hơn 2% trong ngày cuối tuần 1/7.

Tất cả 11 nhóm ngành trong chỉ số S&P 500 đều đi lên trong phiên đầu quý III.

Tuy diễn biến khả quan trong phiên thứ Sáu nhưng nếu tính chung cả tuần qua, các chỉ số đều giảm điểm. Dow Jones mất 1,3%. S&P 500 và Nasdaq giảm sâu hơn với tỷ lệ lần lượt 2,2% và 4,1%.

Theo CNBC, các nhà đầu tư tập trung sự chú ý vào một số doanh nghiệp vừa hạ dự báo lợi nhuận và làm dấy lên lo ngại về việc lạm phát cao có thể tiếp tục gây áp lực lên giá cổ phiếu.

General Motors tăng 1,4% dù tập đoàn sản xuất xe hơi này cảnh báo các vấn đề về sản xuất trong quý II có thể khiến lợi nhuận ròng của quý giảm còn 1,6 – 1,9 tỷ USD. Theo FactSet, các nhà phân tích kỳ vọng General Motors có lãi 2,5 tỷ USD trong quý II.

Trong khi đó, Micron Technology giảm khoảng 3% sau khi công bố dự báo doanh thu và lợi nhuận quý IV (theo niên độ của công ty, gồm các tháng 7-8-9 dương lịch) gây thất vọng. Nhiều cổ phiếu khác cùng ngành chip cũng đi xuống theo như Nvidia giảm 4%, Western Digital và Advanced Micro Devices đều giảm khoảng 3%.

Cổ phiếu Kohl’s lao dốc 19,6% sau khi hãng bán lẻ này cắt giảm dự báo kết quả kinh doanh quý II (gồm các tháng 5-6-7 dương lịch) với lý do tiêu dùng của người dân suy yếu. Công ty cũng hủy các cuộc đàm phán bán mình cho doanh nghiệp khác vì cho rằng môi trường bán lẻ đã chuyển biến xấu kể từ khi bắt đầu quá trình chọn nhà đầu tư.

Dow Jones suy giảm mạnh trong tháng 6.

Nhà bán khống nổi tiếng Michael Burry (nhân vật trong bộ phim The Big Short) đã cảnh báo rằng đợt bán tháo trên các thị trường tài chính mới chỉ đi được nửa chặng đường và rằng các doanh nghiệp sắp tới sẽ chứng kiến lợi nhuận giảm sút.

Nhà phân tích Ross Mayfield của ngân hàng đầu tư Baird cũng có quan điểm tương tự ông Burry và cho rằng dự báo lợi nhuận của S&P 500 tăng trưởng 10% trong năm nay “nhiều khả năng là quá cao” cho dù nền kinh tế chỉ chậm lại đôi chút.

Ông cũng nhấn mạnh việc thị trường rất muốn trông thấy lạm phát lập đỉnh và bắt đầu đi xuống. Lạm phát được cho là nhân tố chủ yếu gây ra đợt bán tháo ồ ạt trên thị trường chứng khoán Mỹ nửa đầu năm 2022.

S&P 500 đã giảm hơn 20% từ đỉnh lịch sử, hiện nay tương đương với mức vào tháng 3/2021.

Viện Quản lý Nguồn cung (ISM) ngày 1/7 cho biết hoạt động sản xuất tháng 6 suy yếu hơn so với dự báo. Chỉ số hoạt động tại các nhà máy trên cả nước giảm còn 53 điểm, thấp nhất kể từ tháng 6/2020.

Chỉ số đơn hàng mới cũng giảm từ 55,1 điểm trong tháng trước đó xuống còn 49,2 điểm trong tháng vừa qua. Chỉ số dưới 50 điểm cho thấy hoạt động kinh tế đang thu hẹp. Đây là lần đầu tiên chỉ số đơn hàng mới ở dưới ngưỡng 50 kể từ tháng 5/2020.

Trong một diễn biến khác, mô hình dự báo GDPNow của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chi nhánh Atlanta cho thấy GDP quý II của Mỹ suy giảm 2,1%. Trong quý I, nền kinh tế lớn nhất thế giới đã tăng trưởng âm. Nếu GDP giảm hai quý liên tiếp thì nền kinh tế sẽ bị coi là rơi vào suy thoái.

Số liệu GDP sơ bộ quý II của Mỹ sẽ được công bố chính thức vào ngày 28/7.

Kinh tế Mỹ có nguy cơ rơi vào suy thoái vì GDP giảm hai quý liên tục.

Đức Quyền - Song Ngọc

Vì sao số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng cao trong khi các chỉ số vĩ mô tích cực?
Trong năm 2024, dù hầu hết chỉ số kinh tế vĩ mô đều tích cực nhưng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường vẫn tăng cao. Điều này cho thấy, tính bền vững trong phục hồi của doanh nghiệp vẫn còn yếu và cần có dư địa chính sách hỗ trợ tốt hơn cho sự phục hồi này.