Giá cà phê hôm nay 14/1: Arabica tăng cao trong khi robusta tiếp tục trượt giảm
Cập nhật giá cà phê trong nước
Khảo sát cho thấy, giá cà phê tại khu vực Tây Nguyên tiếp tục giảm sâu 2.700 – 2.800 đồng/kg so với ngày hôm trước, xuống chỉ còn 114.700 – 115.500 đồng/kg.
Theo đó, Lâm Đồng hiện đang là địa phương có giá thu mua thấp nhất cả nước, đứng ở mức 114.700 đồng/kg, giảm 3.000 đồng/kg.
Giá cà phê hai tỉnh Đắk Lắk Gia Lai được các thương lái thu mua ở mức 115.200 đồng/kg, giảm 2.800 đồng/kg.
Trong khi đó, giá cà phê tại tỉnh Đắk Nông đứng ở mức cao nhất là 15.500 đồng/kg, giảm 2.700 đồng/kg.
Như vậy, sau ba ngày sụt giảm liên tiếp giá cà phê tại thị trường nội địa hiện đang ở mức thấp nhất trong một tháng qua.
Thị trường |
Trung bình |
Thay đổi so với hôm trước |
Đắk Lắk |
115.200 |
-2.800 |
Lâm Đồng |
114.700 |
-3.000 |
Gia Lai |
115.200 |
-2.800 |
Đắk Nông |
115.500 |
-2.700 |
Tỷ giá USD/VND |
25.173 |
- |
Đơn vị tính: VNĐ/kg
Tỷ giá theo ngân hàng Vietcombank
Cập nhật giá cà phê thế giới
Trên thị trường thế giới, giá cà phê tiếp tục biến động trái chiều trong phiên giao dịch vừa qua, với arabica tăng lên mức cao nhất trong 3 tuần và robusta giảm xuống mức thấp nhất trong 1 tuần.
Trên sàn giao dịch London, giá cà phê trực tuyến robusta hợp đồng giao tháng 3/2025 giảm 1,29% (tương ứng 64 USD/tấn) so với phiên giao dịch trước, xuống còn 4.902 USD/tấn. Hợp đồng giao tháng 5/2025 giảm 1,09% (53 USD/tấn), về mốc 4.826 USD/tấn. Đây cũng là phiên thứ hai liên tiếp sụt giảm của thị trường.
Ngược lại, trên sàn giao dịch New York, giá cà phê arabica hợp đồng giao tháng 3/2025 tiếp tục tăng 0,65% (2,1 US cent/pound), đạt 325,95 US cent/pound. Hợp đồng giao kỳ hạn tháng 5/2025 tăng 0,66% (2,1 US cent/pound) và đứng ở mức 321,9 US cent/pound.
Điều kiện thời tiết khô hạn ở Brazil đang hỗ trợ đà tăng của giá cà phê arabica, sau khi Cơ quan Khí tượng Somar Meteorologia báo cáo rằng khu vực trồng cà phê arabica lớn nhất của Brazil là Minas Gerais, chỉ nhận được 29,6 mm mưa trong tuần trước, tương đương 31% mức trung bình lịch sử.
Các nhà giao dịch cho biết, trọng tâm chính của thị trường vẫn là quy mô vụ mùa sắp tới ở Brazil, quốc gia sản xuất cà phê hàng đầu thế giới, dự kiến sẽ phụ thuộc vào mức độ thiệt hại do hạn hán gây ra vào năm ngoái.
Đồng thời cho biết thêm rằng việc gia tăng lượng tồn kho trên sàn giao dịch có thể góp phần kiềm chế giá cả.
Trong khi đó, giá cà phê robusta giảm phiên thứ hai liên tiếp do nguồn cung có dấu hiệu cải thiện từ Việt Nam. Số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 12 tăng vọt gấp đôi tháng trước, đạt 127.655 tấn. Mặc dù vậy, con số này vẫn thấp hơn 38,5% so với cùng kỳ năm 2023.
Theo Công ty I & M Smith, báo cáo mới nhất về Commitment of Traders từ thị trường cà phê robusta London cho thấy khu vực đầu cơ phi thương mại đã tăng nhẹ vị thế mua ròng của họ lên 2,76% trong tuần giao dịch kết thúc vào ngày 7/1, ghi nhận vị thế mua ròng mới là 20.414 lô, tương đương 3.402.333 bao. Vị thế mua ròng này có khả năng không thay đổi nhiều sau giai đoạn giao dịch đi ngang vừa qua.
Chính phủ Brazil đã báo cáo dữ liệu sơ bộ cho thấy xuất khẩu cà phê nhân của nước này trong tháng 12 giảm 17,91% so với cùng kỳ năm trước, đạt tổng cộng 3.365.133 bao.
Hiệp hội Các nhà Xuất khẩu Cà phê Brazil (Cecafé) cho biết xuất khẩu cà phê nhân cộng dồn trong 5 tháng đầu tiên của niên vụ 2024-2025 đã tăng 32,42% so với cùng kỳ niên vụ trước, đạt tổng cộng 20,2 triệu bao. Đây là mức xuất khẩu cao nhất được ghi nhận trong 5 tháng đầu tiên của một niên vụ cà phê tại Brazil và vượt xa con số kỷ lục cũ là 18,6 triệu bao của niên vụ 2020-2021.
Dữ liệu xuất khẩu chính thức của Cecafé cho sáu tháng đầu tiên của niên vụ hiện tại được kỳ vọng sẽ tiếp tục phản ánh mức xuất khẩu cao kỷ lục, vượt xa năm 2020-2021.
Trong 5 tháng đầu tiên của niên vụ hiện tại, Brazil đã xuất khẩu 15,8 triệu bao cà phê arabica, giảm 2,42% so với kỷ lục của năm 2020-2021 nhưng tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu cà phê robusta Conilon đạt 4,42 triệu bao, tăng 84,17% so với vụ kỷ lục 2020-2021 và tăng 30,8% so với cùng kỳ năm trước.