[Bài 2] Vẫn còn quá sớm khi xác định đỉnh nhu cầu dầu mỏ Trung Quốc
“Còn quá sớm để kết luận rằng nhu cầu dầu của Trung Quốc đã đạt đỉnh” bà Meg O’Neill, giám đốc điều hành của Woodside – công ty dầu khí lớn nhất Australia, cho biết. Bà nhấn mạnh rằng kinh tế Trung Quốc vẫn còn một chặng đường dài để đạt đến mức thu nhập bình quân đầu người của phương Tây.
“Nếu bạn nhìn lại 20 năm qua, đã có những tuyên bố về đỉnh của nhu cầu dầu vào thời điểm kinh tế suy thoái, nhưng thời gian chứng minh những nhận định đó không chính xác,” bà O’Neill nói thêm. “Trung Quốc vẫn khao khát phát triển nền kinh tế và nâng cao mức sống, và điều này thường có mối liên hệ trực tiếp với tiêu thụ năng lượng.”
OPEC, tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ, đưa ra triển vọng lạc quan cho Trung Quốc, bất chấp sự sụt giảm nhập khẩu năm ngoái. Nhóm này dự báo rằng tiêu thụ dầu sẽ tiếp tục tăng thêm 2,5 triệu thùng mỗi ngày từ năm 2023 đến năm 2050. Các nhà sản xuất ở Arab Saudi và các nước Trung Đông khác thường dựa vào dữ liệu của OPEC để đưa ra chính sách.
Saudi Aramco cũng bác bỏ ý tưởng rằng Trung Quốc đang giảm tốc. “Khi mọi người nói về Trung Quốc, họ luôn cố gắng tối đa hóa mặt tiêu cực và bỏ qua mặt tích cực,” Nasser phát biểu vào tháng 10 năm ngoái tại hội nghị Sáng kiến Đầu tư Tương lai ở Riyadh. “Nhìn chung, vẫn còn dư địa tăng trưởng ở Trung Quốc.”
Ông Nasser nhấn mạnh rằng nhu cầu thực tế mạnh mẽ và bền vững hơn so với những gì thể hiện qua con số nhập khẩu chính thức. Ông cũng lưu ý rằng ngành công nghiệp năng lượng mặt trời và điện gió đang bùng nổ của Trung Quốc vẫn yêu cầu lượng lớn dầu mỏ.
“Để tạo ra 5 megawatt điện từ gió, bạn cần 50 tấn nhựa. Đối với mỗi chiếc xe điện, bạn cần 200-230kg nhựa. Ngay cả trong các tấm pin mặt trời, 10% thành phần là sợi nhựa. Vì vậy, để quá trình chuyển đổi diễn ra, bạn cần nhiều dầu hơn,” ông giải thích.
Arab Saudi cho rằng thông tin công khai về tiêu thụ dầu mỏ của Trung Quốc không đáng tin cậy. Vì quốc gia này không chính thức công bố số liệu tiêu thụ dầu, các nhà phân tích ước tính dựa trên nhiều nguồn khác nhau, bao gồm dữ liệu nhập khẩu và xuất khẩu, sự thay đổi trong kho dự trữ và dòng sản phẩm từ các nhà máy lọc dầu. Các ước tính đã có sự chênh lệch lớn, lên đến 1 triệu thùng/ngày, ngay cả đối với dữ liệu lịch sử.
Ông Ziad al-Murshed, giám đốc tài chính của công ty Aramco, nói với các nhà phân tích vào cuối năm ngoái rằng những điều chỉnh tăng lớn đối với dữ liệu dầu mỏ năm 2023 “khiến mức tăng trưởng năm 2024 trông thấp hơn thực tế, và điều này làm méo mó bức tranh tổng thể.
Một số người đặt câu hỏi liệu chính phủ Trung Quốc có sẵn sàng để tiêu thụ dầu tạo đỉnh hay không. Dù gọi “cuộc cách mạng” xe điện là “sâu sắc” và “đáng kinh ngạc,” ông Victor Gao, chủ tịch Viện An ninh Năng lượng Trung Quốc, cho rằng chính phủ sẽ phải đánh giá tác động tiềm tàng đối với ngành công nghiệp lọc dầu khổng lồ thuộc sở hữu nhà nước.
Ông nhận định rằng các nhà máy lọc dầu thuộc sở hữu nhà nước của Trung Quốc khó có thể bị mất việc làm một cách đột ngột, nhưng có thể sẽ cần phải thay đổi chiến lược.
“Công suất lọc dầu của Trung Quốc rất lớn. Cho đến nay, Trung Quốc đã lọc dầu thô để sử dụng trong nước, nhưng không xuất khẩu các sản phẩm lọc dầu. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc thành công trong cuộc cách mạng xe điện, họ có thể quyết định lọc dầu thô thành các sản phẩm khác để xuất khẩu. Điều đó có nghĩa là tiêu thụ dầu thô của Trung Quốc có thể không giảm, mà duy trì ổn định,” ông nói.
Ngoài ra, giờ đây Trung Quốc cũng dễ dàng thiết lập nguồn cung dầu thô hơn, ông Gao nhận xét, đề cập đến mối quan hệ năng lượng ngày càng sâu sắc với Nga.
“Điều này đang thay đổi tư duy của Trung Quốc,” ông nói. “Có thể dễ dàng hơn nhiều, nếu các rủi ro địa chính trị được kiểm soát, để mở rộng hợp tác với Nga.” Năm 2023, Nga đã vượt qua Arab Saudi để trở thành nhà cung cấp dầu hàng đầu cho Trung Quốc.
Nếu nhu cầu dầu của Trung Quốc thực sự đạt đỉnh, thì sự đồng thuận chung là tăng trưởng của Ấn Độ sẽ trở thành động lực chính cho sự gia tăng tiêu thụ dầu toàn cầu.
Mặc dù nhu cầu dầu của Ấn Độ vẫn còn xa so với Trung Quốc, OPEC tin rằng mức tiêu thụ dầu của nước này sẽ tăng thêm 1,5 triệu thùng mỗi ngày – khoảng 3/4 mức tăng nhu cầu của Trung Quốc – từ năm 2023 đến năm 2029, trong khi IEA dự báo tăng trưởng dầu mỏ của Ấn Độ sẽ đạt 1,2 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2030.
Mặc dù các lĩnh vực sản xuất, xây dựng và hóa dầu của Ấn Độ nhỏ hơn nhiều so với Trung Quốc, nhưng doanh số bán xe chạy dầu diesel và xăng vẫn chưa bị xe điện thay thế đáng kể.
Theo JMK Research, một cơ quan nghiên cứu về năng lượng tái tạo, chỉ có dưới 100.000 xe điện được bán tại Ấn Độ vào năm ngoái, chiếm khoảng 5% thị trường xe điện, trong đó xe máy và xe đạp điện chiếm ưu thế.
Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng nhu cầu gia tăng tại các thị trường mới nổi sẽ không thể so sánh được với Trung Quốc trong vài thập kỷ qua. Mặc dù có khả năng tăng trưởng đáng kể ở các nơi khác tại Đông Nam Á, IEA cho biết hiệu suất của các nền kinh tế này sẽ bị ảnh hưởng nếu suy thoái kinh tế của Trung Quốc.
Tiêu thụ dầu đang tăng tại châu Phi và Trung Đông, nhưng chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với mức tăng của Trung Quốc về mặt tuyệt đối. Tiêu thụ dầu tại Mỹ Latinh gần như không thay đổi, IEA nhận định.
Tóm lại, sự kết thúc của thời kỳ bùng nổ dầu mỏ tại Trung Quốc sẽ là một thay đổi mang tính bước ngoặt và khó có thể đảo ngược, theo các nhà phân tích.
“Bạn có thể nói rằng các quốc gia khác có thể bù đắp sự thiếu hụt, và nhu cầu dầu của Ấn Độ vẫn đang tăng, nhưng tăng trưởng của Trung Quốc trong 30 năm qua có sự gắn kết rất mạnh mẽ với dầu mỏ,” Rats của Morgan Stanley cho biết.
Một số người có thể không đồng ý về thời điểm chính xác khi nhu cầu dầu của Trung Quốc đạt đỉnh, nhưng Healy của IEA cho rằng nhu cầu dài hạn chỉ có xu hướng giảm – và các quốc gia xuất khẩu dầu cần chuẩn bị sẵn sàng.
“Họ vẫn có thể tiếp tục khai thác dầu và khí đốt và bán chúng, nhưng sẽ có sự sụt giảm lớn trong doanh thu tổng thể,” ông nói. “Với mức độ phụ thuộc của các quốc gia này vào xuất khẩu dầu và khí đốt, điều đó sẽ có những tác động to lớn.”