Nông dân và doanh nghiệp 'nếm vị đắng' mía đường!
Nông dân ĐBSCL đang có một vụ mía đắng khi giá nguyên liệu liên tục sụt giảm |
Chưa “kết toán đã biết lỗ”!
Thời điểm hiện tại, các nhà máy trong nước đã ép được khoảng 12 triệu tấn mía, sản xuất hơn 1,1 triệu tấn đường. Lượng đường tồn kho của doanh nghiệp khoảng 680.000 tấn (hơn1/2 sản lượng sản xuất ra), tăng gấp đôi so với cách đây 2 tháng.
Giá thu mía nguyên liệu giữa các vùng có sự chêch lệch khá cao như mua tại ruộng: Bến Tre 800 đồng/kg, Sóc Trăng, Trà Vinh 820 đồng/kg, trong khi đó tại Lam Sơn, Nông Cống là 1.150 đồng/kg.
Người trồng mía từ vùng đất trù phú phù sa Cù Lao Dung (Sóc Trăng) đến vùng đất khó Phú Yên, Khánh Hòa đều khóc ròng vị mía nguyên liệu tụt giá thảm hại, mà kiếm người bán mía cũng khó khăn.
Tại Cù Lao Dung, nông dân phải bán mía với giá 500 đồng/kg nhưng công thuê đốn mía đã 200 đồng/kg, nông dân bán mía tính ra lỗ 2 triệu đồng/ha. Đây cũng là điều dễ hiểu khi lượng đường tồn kho gia tăng khi các nhà máy vào vụ.
Đầu năm 2018, các nhà máy tồn kho gần 200.000 tấn, sang tháng 3 hơn 300.000 tấn và sang tháng 4/2018 đã hơn 500.000 tấn. Đường lậu, đường nhập chính ngạch khi hội nhập với khu vực tràn vào với giá thành thấp, gia tăng áp lực cạnh tranh rất lớn.
Nhiều nhà máy đường trong nước phải bấm bụng bán đường tồn kho thấp dưới giá thành sản xuất! Chưa “kết toán” niên vụ sản xuất nhưng chuyện nhiều nhà máy đường đã cầm chắc thua lỗ tiền tỷ. Đây được xem là đỉnh điểm của “vị đắng mía đường” khi bước vào sân chơi hội nhập.
Bao giờ “mía đường hết đắng”?
Cả nước hiện nay có hơn 40 nhà máy đường, tổng công suất thiết kế khoảng 150 ngàn tấn mía/ngày, tăng 1,5 lần so với năm 2005 và tăng 12,7 lần so với năm 1995. Ít nhất là 4 nhà máy đường đã ngưng hoạt động do hoạt động không hiệu quả. Và diễn cảnh nhiều nhá máy sẽ tiếp tục đóng cửa là rất gần trong áp lực cạnh tranh khốc liệt. Câu hỏi đặt ra là: Có nên để các nhà máy đường “sống chết mặc bây”!?
Mới đây, Bộ NN-PTNT đã có Quyết định số 1369/QĐ-BNN-CBTTNS phê duyệt Đề án phát triển mía đường đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 theo hướng cơ cấu lại ngành sản xuất và kinh doanh mía đường Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt với đường ngoại nhập.
Theo đó, sẽ không xây dựng thêm nhà máy sản xuất đường mới, chỉ mở rộng công suất các nhà máy đường hiện có ở vùng còn khả năng phát triển vùng nguyên liệu. Đây cũng chính là quy hoạch cho ngành mía đường Việt Nam với mục tiêu đến năm 2020, duy trì diện tích sản xuất mía ổn định 300.000ha, sản lượng mía trên 20 triệu tấn; sản lượng đường 2 triệu tấn. Đến năm 2030, vẫn giữ ổn định diện tích như năm 2020, tăng năng suất để đạt sản lượng mía 24 triệu tấn, sản lượng đường 2,5 triệu tấn.
Do giá đường giảm nên giá mía nguyên liệu giảm |
Với diện tích khoảng 300.000 ha, có khoảng 33.000 hộ nông dân, hơn 1,5 triệu lao động nông nghiệp tham gia ngành mía đường, có nên chuyển trồng mía sang trồng cây khác? Đây thật sự là bái toán hóc búa! Phần lớn diện tích trồng mía là nằm ở vùng đất khó: khô cằn hoặc nằm ở vùng chịu tác động phèn mặn. Chuyển thì chuyển sang trồng cây gì khác trong khi nhiều nông sản đang “cần giải cứu đầu ra”, đầu tư cải tạo hệ thống canh tác không hề đơn giản, nông dân phải tiếp cận kỹ thuật khi chuyển đổi cơ cấu cây trồng!
Thực tế là ở ĐBSCL nông dân có khả năng đã bỏ cây mía, chuyển sang trồng nhiều cây khác. Không thể bỏ hết diện tích trồng mía nguyên liệu, để các nhà máy đường “sống chết mặc bây”! Cần nhìn nhận những điểm yếu của ngành mía đường hiện nay để tái cơ cấu bài bản.
Vùng mía nguyên liệu hiện nay trồng rất manh mún. Do đặc thù, tại ĐBSCL nông dân thường lên liếp gần mương để trồng mía, khâu thu hoạch chủ yếu bằng thủ công, giá thuê đốn mía rất cao. Bình quân diện tích trồng mía nhỏ hơn 1 ha/hộ, giá thành sản xuất còn cao dao động từ 720 đồng/kg đến 750 đồng/kg.
Vấn đề cơ giới hóa khâu thu hoạch mía lâu nay đã được chỉ ra, thậm chí có địa phương (như Hậu Giang) đã đặt hàng các nhà khoa học giúp cơ giới hóa khâu thu hoạch mía nhưng đến nay vẫn chưa làm được. Hiện tại chỉ có một phần nhỏ diện tích trồng mía ở Thanh Hóa được thu hoạch bằng cơ giới với sự phối hợp của nhà máy đường Lam Sơn.
Năng suất mía của Việt Nam hiện nay vẫn thấp so với nhiều nước. Nguyên nhân là do giống mía gốc tại Việt Nam chưa nhiều, đa số các giống đang trồng tại Việt Nam và vùng ĐBSCL đều có nguồn gốc từ Trung Quốc và Thái Lan. Sản xuất mía của nông dân chủ yếu là lao động thủ công, không lưu gốc được mà phải trồng lại hằng năm.
Trong khi đó, hầu hết các nhà máy ở Việt Nam đều có quy mô nhỏ hơn 3.000 tấn mía đường/ngày và chỉ có khoảng 5/43 nhà máy có công suất lớn hơn 6.000 tấn mía đường/ngày. So với các nước xuất khẩu đường lớn như Thái Lan, Nam Phi, Trung Quốc, Cuba, Brazil … thì quy mô cũng như công suất hoạt động của các nhà máy đường nước ta là rất thấp. Theo các chuyên gia, với quy mô như vậy, chi phí sản xuất đường của Việt Nam sẽ luôn cao hơn nhiều so với các nước.
Việc cải thiện năng suất mía, hình thành vùng trồng tập trung; đưa cơ giới hóa vào khâu thu hoạch là các vấn đề thiết yếu từ vùng nguyên liệu. Đối với các nhà máy đường, chuyện nâng công suất nhà máy đường là cấp bách để giảm giá thành sản xuất. Đồng thời, ngành đường phải đa dạng hóa sản phẩm chứ không chỉ chăm bẵm vào mỗi sản phẩm đường. Các chuyên gia cho rằng, có ít nhất 20-25 sản phẩm sau đường!
Để tìm lại “vị ngọt của mía đường”, một lãnh đạo nhà máy đường ở Hậu Giang nhận định: Nếu có được những cơ chế, chính sách phù hợp ngang bằng với các nước trong khối ASEAN thì nông dân trồng mía sẽ đứng vững trong hội nhập. Các chính sách đó bao gồm: Qui hoạch vùng mía nguyên liệu cho phù hợp với tình hình hội nhập hiện nay, đặc biệt là vấn để giao thông và thuỷ lợi nội đồng, giúp nông dân có thể giảm được chi phí sản xuất và thu hoạch mía. Hỗ trợ cụ thể để giúp nông dân trồng mía có thể thực hiện được việc dồn điền đổi thửa - hình thành các cánh đồng mía lớn, hợp tác xã sản xuất lớn nhằm áp dụng được cơ giới hoá trong sản xuất và thu hoạch.