|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Giá tiêu hôm nay 6/1: Tăng thêm 500 đồng/kg tại một số địa phương

06:00 | 06/01/2024
Chia sẻ
Giá tiêu hôm nay (6/1) tại một số tỉnh trọng điểm trong nước tăng nhẹ, lên khoảng 81.000 - 83.000 đồng/kg. Trong phiên sáng nay, giá cao su kỳ hạn trên hai sàn giao dịch ghi nhận giảm không quá 2%.

Cập nhật giá tiêu

Giá tiêu trong nước

Theo khảo sát, giá tiêu dao động từ 81.000 đồng/kg đến 83.000 đồng/kg tại thị trường nội địa. Trong đó, các tỉnh tại khu vực Tây Nguyên vẫn duy trì giá ổn định, trong khi các tỉnh Đông Nam Bộ điều chỉnh giá tăng nhẹ.

Chi tiết như sau, Gia Lai đang là địa phương có mức giá thấp nhất với 81.000 đồng/kg. Nhỉnh hơn một chút là tỉnh Đồng Nai với mức giá 81.500 đồng/kg - tăng 500 đồng/kg.

Hồ tiêu tại hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông vẫn được thu mua với cùng mức giá là 82.000 đồng/kg.

Song song đó, giá tiêu hôm nay tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và tỉnh Bình Phước được ghi nhận tại mức tương ứng là 82.500 đồng/kg và 83.000 đồng/kg, cùng tăng 500 đồng/kg.

Tỉnh/huyện (khu vực khảo sát)

Giá thu mua (Đơn vị: đồng/kg)

Thay đổi so với hôm qua (Đơn vị: đồng/kg)

Đắk Lắk

82.000

-

Gia Lai

81.000

-

Đắk Nông

82.000

-

Bà Rịa - Vũng Tàu

82.500

+500

Bình Phước

83.000

+500

Đồng Nai

81.500

+500

 

Giá tiêu thế giới

Theo cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) vào ngày 5/1 (theo giờ địa phương), giá tiêu đen Lampung (Indonesia) tăng 0,03% so với ngày 4/1.

Song song đó, giá tiêu đen Brazil ASTA 570 và tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA vẫn duy trì ổn định.

Tên loại

Bảng giá tiêu đen thế giới (ĐVT: USD/tấn)

Ngày 4/1

Ngày 5/1

% thay đổi

Tiêu đen Lampung (Indonesia)

3.939

3.940

0,03

Tiêu đen Brazil ASTA 570

3.270

3.270

0

Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA

4.900

4.900

0

Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok tăng 0,05% so với phiên hôm trước, trong khi giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có điều chỉnh mới.

Tên loại

Bảng giá tiêu trắng thế giới (ĐVT: USD/tấn)

Ngày 4/1

Ngày 5/1

% thay đổi

Tiêu trắng Muntok

6.066

6.069

0,05

Tiêu trắng Malaysia ASTA

7.300

7.300

0

Theo số liệu của Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (USITC), Mỹ đã nhập khẩu 5.958 tấn hồ tiêu trong tháng 10, tăng 23,9% so với tháng trước nhưng giảm 10,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, đây đã là tháng thứ 8 liên tiếp nhập khẩu tiêu của nước này giảm so với cùng kỳ.

Tính chung trong 10 tháng đầu năm, nhập khẩu hồ tiêu của Mỹ đạt 56.981 tấn, trị giá 261,2 triệu USD, giảm 25,1% về lượng và giảm 31,2% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, Việt Nam là nguồn cung hồ tiêu lớn nhất cho thị trường Mỹ trong 10 tháng với khối lượng đạt 44.139 tấn, giảm 20,9% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tuy nhiên, thị phần của Việt Nam trong tổng nhập khẩu của Mỹ vẫn tăng lên mức 78% so với 73% của cùng kỳ.

Khối lượng nhập khẩu từ các thị trường lớn khác cũng đều giảm như: Ấn Độ đạt 5.087 tấn, giảm 5%; Indonesia đạt 3.177 tấn, giảm 48%; Brazil đạt 1.828 tấn, giảm 68,4%...

Nhu cầu nhập khẩu hồ tiêu tại Mỹ được cho là sẽ tăng trở lại trong thời gian tới do lạm phát đang có xu hướng hạ nhiệt và chi tiêu của người tiêu dùng đang tăng lên.

Bộ Thương mại Mỹ hôm 14/12 công bố doanh số bán lẻ tháng 11 của nước này tăng 0,3% so với tháng trước đó. Số liệu này trái ngược với dự báo của các nhà kinh tế học là giảm 0,2%. Nếu không tính các trạm xăng, doanh số bán lẻ của Mỹ còn tăng mạnh hơn, với 0,6%. Doanh số được ghi nhận tăng ở hầu hết lĩnh vực, mạnh nhất là nhà hàng.

Số liệu cho thấy người Mỹ sẵn sàng mở hầu bao khi lạm phát chậm lại và thị trường việc làm vẫn vững mạnh, bất chấp lãi suất tại nước này hiện cao nhất 22 năm và tăng trưởng kinh tế cũng đang chậm lại. Ngày 13/12, các quan chức Fed đã bỏ phiếu nhất trí giữ nguyên lãi suất trong phạm vi 5,25% - 5,5%, mức cao nhất trong 22 năm.

Cùng với quyết định giữ nguyên lãi suất, Fed dự kiến ít nhất sẽ có 3 lần cắt giảm lãi suất vào năm 2024. Số lần cắt giảm này thấp hơn dự đoán 4 lần của thị trường, nhưng mạnh mẽ hơn những gì các quan chức chỉ ra trước đó.

Ảnh: Bình An

Cập nhật giá cao su

Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su kỳ hạn giao tháng 1/2024 đạt mức 239,5 yen/kg, giảm 0,99% (tương đương 2,4 yen/kg) tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h00 (giờ Việt Nam).

Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 1/2024 được điều chỉnh xuống mức 13.470 nhân dân tệ/tấn, giảm 1,86% (tương đương 255 nhân dân tệ) so với giao dịch trước đó.

Theo báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương), lượng cao su nhập khẩu của Trung Quốc tiếp tục giảm trong tháng 11/2023.

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, tháng 11/2023, Trung Quốc nhập khẩu 684,6 nghìn tấn cao su tự nhiên và tổng hợp (kể cả mủ cao su), với trị giá 1,01 tỷ USD, giảm 7,3% về lượng và giảm 10,9% về trị giá so với tháng 11/2022, đây là tháng giảm thứ 3 liên tiếp so với cùng kỳ năm 2022.

Lũy kế 11 tháng năm 2023, Trung Quốc nhập khẩu gần 7,23 triệu tấn cao su tự nhiên và tổng hợp (kể cả mủ cao su), trị giá 10,61 tỷ USD, tăng 9,6% về lượng, nhưng giảm 10,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.

Song song đó, Campuchia đã xuất khẩu được 334,17 nghìn tấn cao su trong 11 tháng năm 2023, với trị giá 445,4 triệu USD, tăng 3,6% về lượng, nhưng giảm 4,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Giá xuất khẩu trung bình cao su ở mức 1.333 USD/tấn, thấp hơn 111 USD/tấn so với cùng kỳ năm 2022.

Cao su của Campuchia được xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường Malaysia, Việt Nam, Singapore và Trung Quốc. Tính đến nay Campuchia đã trồng được 407.172 ha cao su, trong đó 320.184 ha, tương đương 78,6% diện tích cao su đủ tuổi để khai thác mủ.

Bình An