|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Thời sự

Đầu tư vào đâu năm 2020, ngay thời điểm nền kinh tế thế giới được dự báo khủng hoảng?

15:37 | 05/11/2019
Chia sẻ
Kinh tế thế giới còn nhiều bất định, rủi ro xảy ra khủng hoảng trong năm 2020 hoặc 2021 được dự báo rất cao dù qui mô không lớn như giai đoạn 2008.

Nhận định được TS. Võ Trí Thành, Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu và Quản Kinh tế Trung ương đưa ra tại Hội thảo "Kinh tế Việt Nam 2020- 2030: Suy thoái hay hưng thịnh?" do Nhịp cầu đầu tư tổ chức sáng 5/11 tại TP HCM.

Nhiều bất định, Việt Nam vẫn được cho là điểm sáng

Đánh giá về tình hình kinh tế thế giới, TS Thành nêu thời điểm hiện nay và năm tới có nhiều biến động theo hướng rủi ro gia tăng, tăng trưởng vẫn được đa số các tổ chức lớn dự báo sẽ vẫn tiếp đà đi xuống dù cho chiến tranh thương mại Mỹ - Trung có tiếp tục hay ngừng.

Nhiều dự báo cho rằng năm 2020 hoặc 2021 sẽ xảy ra cuộc khoảng hoảng dù không lớn như giai đoạn 2008. Khi mà nhiều quốc gia duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng dẫn đến bong bóng tài chính đang hình thành, lợi suất trái phiếu dài hạn của Mỹ thấp xuống thấp hơn lợi suất trái phiếu ngắn hạn, nợ công châu Âu, Mỹ ở mức cao, xu hướng bảo hộ tiếp diễn…

Với kinh tế Việt Nam, trong 3 quí đầu năm 2019, tăng trưởng kinh tế VN là 6,98%, riêng quí III tăng trưởng 7,3%; tuy nhiên Thủ tướng báo Quốc hội rằng tăng trưởng cho cả năm 2019 nhiều khả năng đạt 6,8%. Điều này cho thấy sự thận trọng của Chính phủ trong việc dự báo kinh tế quí III.

Thường quí IV mức tăng trưởng cao hơn các quí trước và như vậy tăng trưởng cả năm nay ít nhất cũng phải 7%. Tuy nhiên, theo TS. Võ Trí Thành, thực tế cho thấy chỉ số đơn đặt hàng PMI đã giảm 3 tháng liên tục xuống sát mức 50, một số lĩnh vực như dệt may đang sụt giảm đơn hàng, qua đó cho thấy dù diễn chiến tranh thương mại nhưng vẫn chưa hưởng lợi, trong khi nhiều đối tác thương mại của VN đang đi xuống.

Theo đó, yếu tố quyết định tăng trưởng còn lại trong quí cuối năm chủ yếu nằm ở giải ngân đầu tư công có nhanh hay không. Hiện dòng vốn lớn đã sẵn sàng nhưng tốc độ triển khai các dự án công thời gian qua là rất chậm.

Bên cạnh đầu tư công, TS Thành cũng tỏ ra lo ngại về tốc độ cải cách của Việt Nam vẫn còn đang rất chậm, trong đó nổi cộm các vấn đề chính như cải cái cơ cấu DNNN, "trôi chảy" hoạt động của bộ máy nhà nước, xử lí bức xúc xã hội, chống tham nhũng. Song song đó là tận dụng khéo léo FTAs, ổn định tăng trưởng, đảm bảo các nước không có do "trả đủa".

"Năm 2020, tất cả dự báo Việt Nam sẽ tăng trưởng 6,6 đến 6,8%. Mức tăng trưởng này vẫn là điểm sáng về tăng trưởng nhưng để đạt được 7% là cực khó", ông Thành nhận định.

Việc giữ ổn định kinh tế vĩ mô 5 năm gần đây giúp dự trữ ngoại tệ tăng trên 72 tỷ USD, thâm hụt ngân sách dưới 3,6%, lạm phát 2019 dưới 4%. Nhờ đó, Việt Nam đang có nhiều thuận lợi và dư địa để ứng phó với sự biến động của thị trường, khả năng bơm hút tiền của NHNN rất dễ dàng.

Bên cạnh yếu tố ổn định chính trị, dân số trẻ, dịch chuyển chiến tranh thương mại, cải cách hội nhập. TS. Thành cho rằng, một trong những điều tạo ra sức hút đối với nhà đầu tư nước ngoài đó chính là sợi dây liên hệ của VN với các nền kinh tế lớn trên thế giới.

"Nhà đầu tư chơi với VN sẽ dễ dàng chơi với thế giới, vì chúng ta có đến 16 FTAs. Không chỉ có thị trường 100 triệu dân, nhà đầu tư vào Việt Nam có thể tiếp cận thị trường rộng lớn mà Việt Nam đã và đang hợp tác", ông Thành đánh giá.

5 nhóm ngành tiềm năng

TS. Võ Trí Thành chỉ ra 5 nhóm ngành/lĩnh vực của Việt Nam có tiềm năng, bao gồm: 1) những ngành có lợi thế truyền thống như dệt may, giày da, điện tử, nông sản và thủy sản; 2) lĩnh vực phục vụ tiêu dùng như phân phối bán lẻ, du lịch, giải trí, giáo dục, y tế, dược; 3) lĩnh vực hỗ trợ mạng sản xuất/chuỗi giá trị, kết nối với doanh nghiệp tiên phong gồm dịch vụ hỗ trợ logistics, công nghiệp hỗ trợ; 4) những ngành lĩnh vực mới nổi như kinh tế xanh, kinh tế sáng tạo, kinh tế nền tảng fintech; 5) kết cấu hạ tầng và bất động sản gồm bất động sản nhà ở, văn phòng, du lịch, bán lẻ, khu công nghiệp…

Riêng lĩnh vực tài chính ngân hàng, Còn theo TS. Võ Trí Thành, hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam mặc dù đã có nhiều bước tiến tích cực nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề.

Đến nay đã có 12 NHTM đáp ứng chuẩn Basell II; nợ xấu đã giảm đáng kể từ mức 17% năm 2014-2015 xuống thấp hơn 2%, kể cả nợ tại VAMC vào khoảng 4,8%; thị trường chứng khoán (TTCK) phát triển đã "chia lửa" cung cấp vốn cho hệ thống ngân hàng là những tín hiệu tích cực.

"Tuy nhiên thị trường tài chính cũng còn không ít vấn đề, đó là Basel II thách thức với nhiều ngân hàng; xử vài ngân hàng yếu kém, nợ xấu nhóm 4 -5 còn cao tại một số ngân hàng.

Thị trường cổ phiếu từ phấn khích năm 2017 đến cẩn trọng, thanh khoản sụt giảm đáng kể trong khi thị trường trái phiếu nhiều nền tảng cơ bản chưa hoàn thiện gồm khuôn khổ pháp , chuẩn mực kế toán, xếp hạng tín nhiệm…", ông Thành nhận định.

Theo đó, TTCK sẽ phụ thuộc vào tốc độ cải cách luật chơi, sửa đổi luật chứng khoán, nới room, thêm công cụ phái sinh, tăng cường minh bạch, tăng cung nhờ ép tiến độ cổ phần hoá, nâng hạng thị trường từ cận biên lên mới nổi,  thị trường trái phiếu, trái phiếu DN, đặc biệt là khả năng chuyển đổi tiền tệ…

Huy Nguyên