Tổng giám đốc May 10: Mảng kinh doanh veston mới chỉ phục hồi một nửa công suất
Với sự bùng nổ của đại dịch COVID-19, năm 2020 được xem là "ông kẹ" đối với ngành dệt may nói riêng và kinh tế toàn thế giới nói chung khi chuỗi cung ứng nguyên liệu sản xuất bị đứt gãy trong khi tiêu thụ hàng may mặc giảm sút.
Tổng Công ty May 10 cũng không nằm ngoài sức ảnh hưởng này khi lợi nhuận giảm 3,3% xuống còn 66 tỷ đồng (theo báo cáo tài chính hợp nhất đã kiểm toán của công ty).
Bên lề Hội thảo CPTPP - Cơ hội mở rộng thị tường châu Mỹ cho hàng xuất khẩu Việt Nam, người viết đã có cuộc trao đổi ngắn với ông Thân Đức Việt, Tổng Giám đốc Tổng Công ty May 10 về tình hình kinh doanh của công ty trong những tháng đầu năm 2021.
2020 là một năm đầy sóng gió với May 10 và các doanh nghiệp dệt may nói chung. Bước sang năm 2021, tình hình kinh doanh của May 10 thế nào, thưa ông?
Ông Thân Đức Việt: Trong quý I/2021, sản lượng của May 10 tăng nhưng do đơn giá nhận từ quý III và quý IV/2020 thấp nên hiệu quả chỉ tương đương 2019.
Mặc dù vậy, năm nay chúng tôi dự kiến đạt được mục tiêu doanh thu là 3.356 tỉ đồng và mục tiêu lợi nhuận 91 tỷ đồng chắc chắn đạt được. Hiện tại, chúng tôi cũng đã có đơn hàng đến hết tháng 8.
Được biết trong năm 2020, mảng kinh doanh cốt lõi của May 10 là veston bị ảnh hưởng trầm trọng do dịch COVID-19, xin ông cho biết tình hình sản xuất mảng này từ đầu năm đến nay?
Ông Thân Đức Việt: Trong năm 2020 do ảnh hưởng bởi COVID-19, tất cả thị trường nhập khẩu của May 10 ảnh hưởng trầm trọng. Do đó, lượng tiêu thụ các sản phẩm may mặc đặc biệt hai mảng chính sơ mi và veston giảm sút. Tính đến thời điểm hiện tại mảng sơ mơ đã hồi phục hoàn toàn còn veston chưa thể.
Theo đó, công suất trước khi xảy ra đại dịch của May 10 là 100.000 - 120.000 bộ veston một tháng. Tuy nhiên, hiện nay công suất chỉ còn một nửa do sức mua yếu
Để bù đắp lượng đơn hàng veston giảm sút, May 10 đã phải thay thế bằng các mặt hàng dệt thoi như áo khoác, đầm, áo khoác nữ.
Chúng tôi kỳ vọng thế giới sớm kiểm soát được dịch bệnh, các hoạt động giao thương bình thường trở lại, từ đó nhu cầu các mặt hàng thời trang công sở tăng lên. Chúng tôi dự đoán tháng 8 năm 2021, lượng đặt hàng veston sẽ khôi phục 80 - 100% so với trước đại dịch.
Năm ngoái, May 10 đã khá thành công khi chuyển đổi sang sản xuất khẩu trang nhằm bù đắp doanh thu từ mảng veston. Sang năm 2021, đây có tiếp tục là hướng đi chính trong bối cảnh kinh doanh gặp khó khăn?
Ông Thân Đức Việt: Năm 2020, khẩu trang y tế và bộ quần áo phòng chống dịch chiếm 17% tổng doanh thu. Đây là một trong những nỗ lực thành công của chúng tôi nhằm bù đắp doanh thu mảng lõi bị thiệt hại do dịch bệnh.
Thế nhưng, chúng tôi cho rằng sản phẩm này đang có dấu hiệu bão hòa. Theo đó, nhu cầu trên thị trường vẫn còn nhưng có quá nhiều doanh nghiệp sản xuất.
Chúng tôi đang duy trình sản xuất ở mức vừa phải và tập trung chủ yếu vào dòng khẩu trang y tế thay vì khẩu trang dùng cho mục đích thông thường. Mặc dù công suất sản xuất không quá lớn như hồi đỉnh dịch nhưng đây là chiến lược lâu dài và chắc chắn hơn.
Lượng xuất khẩu của May 10 sang Canada năm 2020 tăng gấp đôi trong khi hàng loạt thị trường chính giảm sút, nguyên nhân nào dẫn đến bước tăng trưởng này, thưa ông?
Ông Thân Đức Việt: Doanh thu từ việc xuất khẩu sang thị trường Canada tăng gấp đôi nhờ mặt hàng khẩu trang và bộ trang phục phòng chống dịch. Theo đó, năm 2019, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Canada chỉ đạt 700.000 USD, chiếm tỷ trọng chỉ 1%.
Tuy nhiên, sang năm 2020, con số này tăng gấp đôi, đạt 1,5 triệu USD. Dự kiến kiếm năm 2021, với ưu đãi thuế từ hiệp định CPTPP, xuất khẩu sang thị Canada có thể đạt tới 6,5 triệu USD, tức gấp 9 lần so với năm 2019.
Các doanh nghiệp dệt may đang vướng nút thắt liên quan đến quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan trong hiệp định CPTPP, vậy với May 10 thì sao, thưa ông?
Ông Thân Đức Việt: Vướng mắc hiện nay với May 10 và cả ngành dệt may là đáp ứng quy tắc xuất xứ của hiệp định CPTPP. Đối với EVFTA, các nước châu Âu chỉ yêu cầu hàng dệt may đảm bảo quy tắc xuất xứ từ vải. Tuy nhiên, với các nước CPTPP họ yêu cầu từ sợi.
Trong quá trình gặp gỡ các đối tác, có những chi tiết doanh nghiệp chúng tôi chưa phát hiện ra nhưng doanh nghiệp bạn lại yêu cầu.
Ví dụ như chi tiết chỉ may, vốn chỉ chiếm chi phí rất nhỏ nhưng nếu không có xuất xứ từ Việt Nam thì cũng không được hưởng ưu đãi thuế quan. Trong khi đó, một vài công đoạn trong sản xuất chỉ may chưa thể sản xuất ở Việt Nam.
Thực tế, chúng tôi chỉ có khoảng 30% mặt hàng được hưởng ưu đãi thuế. Do đó, chúng tôi đang cố gắng liên kết với các nhà sản xuất vải. Các nhà sản xuất vải lại tiếp tục hợp tác với nhà sản xuất sợi để nghiên cứu các sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế quan.
Chúng tôi cũng đang kêu gọi các nhà đầu tư sản xuất vải vào Việt Nam nhằm đáp ứng quy tắc xuất xứ. Chính nút thắt từ vải và nguyên liệu sẽ là cú hích để các nhà đầu tư nhìn thấy tiềm năng tại Việt Nam từ đó rót vốn vào mảng này.