Tại sao giảm phát lại là liều thuốc độc với các nền kinh tế đang chao đảo vì đại dịch?
Giá giảm thì có gì xấu? Suy cho cùng, tất cả mọi người đều muốn được mua hàng với giá rẻ hơn.
Nhưng việc xe cộ, quần áo, máy móc ... cứ liên tục rẻ đi sẽ tạo thành vòng xoáy giảm phát, tiềm ẩn khả năng tàn phá nền kinh tế.
Trong cú sốc kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra, nhiều người lo sợ rằng giá cả trên thế giới có thể sẽ lao dốc, kéo nền kinh tế vốn đã rơi vào suy thoái xuống vực thẳm sâu hơn nữa.
1.Vì sao giá giảm lại có hại?
Khi giá của nhiều loại hàng hóa suy giảm kéo dài, hoạt động kinh tế có thể sẽ bị đình trệ. Người tiêu dùng nghĩ rằng càng đợi lâu sẽ càng mua được hàng với giá rẻ hơn nên sẽ trì hoãn việc chi tiêu.
Việc người tiêu dùng hoãn mua hàng khiến cho doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp sụt giảm, buộc doanh nghiệp phải tạm dừng đầu tư và ngừng tuyển dụng thêm nhân viên để tiết kiệm chi phí tiền lương.
Triển vọng công việc nghèo nàn và lương bổng trì trệ khiến các hộ gia đình càng thắt chặt ví tiền, tăng thêm áp lực buộc doanh nghiệp phải tiếp tục giảm giá. Rốt cuộc, doanh nghiệp, người lao động, hộ gia đình đều phải chịu khổ.
2. Vì sao các nhà kinh tế lo lắng về giảm phát?
Giảm phát chính là nguyên nhân dẫn đến hai thảm họa kinh tế thuộc hàng lớn nhất trong lịch sử hiện đại: Cuộc Đại Khủng hoảng trong những năm 1930, và thập kỉ mất mát của Nhật Bản.
Các nhà kinh tế đã tìm ra nhiều giải pháp để xử lí lạm phát nhưng vẫn đang khá bế tắc trong đối phó với giảm phát.
Theo Bloomberg, bà Christine Lagarde, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu từng phát biểu: "Nếu lạm phát là một vị thần tinh quái, thì giảm phát là một con yêu tinh hung hãn mà chúng ta phải tấn công quyết liệt".
3. Thế giới rút ra được bài học gì từ Nhật Bản?
Trường hợp của Nhật Bản khiến cho các nhà kinh tế hiểu được rằng việc đưa một nền kinh tế thoát khỏi giảm phát là một nhiệm vụ rất khó khăn.
Giá cả ở Nhật Bản bắt đầu tuột dốc từ những năm 1990, khi thiệt hại nặng nề từ bong bóng nhà đất khiến các ngân hàng ngừng cho mọi người vay tiền. Lương bổng bị đình trệ và người tiêu dùng hạn chế chi tiêu. Việc người tiêu dùng ngần ngại mua sắm và không thích những công ty tăng giá hàng hóa dần trở thành chuẩn mực mới. Ngân hàng trung ương Nhật Bản gọi hiện tượng này là "tư duy giảm phát".
Sau hai thập kỉ giá cả suy yếu và tăng trưởng thấp, Thủ tướng Shinzo Abe bổ nhiệm ông Haruhiko Kuroda làm Thống đốc ngân hàng trung ương Nhật Bản, quyết tâm tiêu diệt giảm phát vĩnh viễn.
Nhưng sau 7 năm rót số tiền khổng lồ cho các ngân hàng thông qua việc mua lại số tài sản tài chính với qui mô còn lớn hơn cả GDP của Nhật Bản, tỉ lệ lạm phát của nước này vẫn gần bằng 0%, thấp hơn nhiều mục tiêu 2% đã đặt ra.
Chính sách lãi suất âm và mục tiêu lợi suất trái phiếu 0% của Nhật Bản cũng không thúc đẩy đáng kể chi tiêu. Đây là minh chứng rõ ràng nhất cho sự khó khăn của việc chấm dứt giảm phát chỉ với các công cụ của chính sách tiền tệ.
4. Điều gì đang làm dấy lên lo ngại về giảm phát hiện nay?
Trước khi khủng hoảng COVID-19 nổ ra, tỉ lệ lạm phát của các nước công nghiệp cũng đã ở mức rất thấp, dù cho các cơ quan tiền tệ của những nước này đã tung ra nhiều biện pháp mạnh tay để kích thích tăng trưởng sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.
Giá dầu lao dốc và hoạt động kinh tế đóng băng vì COVID-19 càng khiến nỗi lo về khả năng xảy ra giảm phát trở nên trầm trọng hơn. Dù rằng các nhà máy và cửa hàng bị đóng cuối cùng cũng sẽ được mở cửa trở lại, nhưng nhiều việc làm trên toàn cầu đã bị xóa sổ, đồng nghĩa với việc tình trạng nhu cầu suy yếu sẽ tiếp tục kéo dài.
Các biện pháp của chính phủ như phát tiền mặt cho người dân có thể sẽ không đủ để kích thích nhu cầu và thúc đẩy giá cả tăng một cách nhanh chóng, trong bối cảnh các biện pháp nhằm hạn chế lây lan COVID-19 và những lo ngại về sức khỏe khiến người dân ngại rời khỏi nhà.
Triển vọng kinh tế bấp bênh đến múc Chủ tịch Fed Jerome Powell đã quyết định bỏ qua việc công bố các dự báo kinh tế, với lí do rằng việc đưa các con số này cho công chúng "chẳng những không giúp ích mà còn có thể trở thành vật cản trong việc truyền tải thông điệp của Fed".
5. Giảm phát tác động thế nào đến trái phiếu?
Theo lí thuyết, giảm phát có thể khiến trái phiếu trở nên hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư, vì dòng thu nhập ổn định mà trái phiếu cung cấp sẽ trở nên có giá trị hơn trong thời kì giá cả liên tục sụt giảm và lãi suất thấp.
Trái phiếu Kho bạc và những trái phiếu cao cấp khác như nợ doanh nghiệp hạng AAA- thường được coi là tài sản "miễn nhiễm" với giảm phát.
Nhưng trái phiếu lợi suất cao (trái phiếu rác) sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, đặc biệt là khi môi trường giảm phát làm tăng thêm rủi ro kinh doanh và rủi ro tín dụng của những công ty phát hành những trái phiếu này.
Trong khi lạm phát có thể giúp giảm gánh nặng nợ nần của doanh nghiệp và chính phủ theo thời gian bằng cách giảm giá trị thực của các khoản thanh toán nợ, giảm phát sẽ có tác động ngược lại.
6. Liệu lạm phát có phải là vấn đề?
Một số người nghĩ rằng lo ngại về giảm phát do đại dịch COVID-19 gây ra đã bị phóng đại, vì giá cả có thể sẽ nhảy vọt một khi hoạt động kinh tế được nối lại. Ngoài ra, khi các biện pháp kích thích của chính phủ và ngân hàng trung ương phát huy hiệu quả, nhu cầu sẽ được thúc đẩy.
Tuy nhiên, kể cả sau khi đại dịch COVID-19 chấm dứt, hậu quả của biện pháp phong tỏa – triển vọng việc làm nghèo nàn, niềm tin của người tiêu dùng bị hủy hoại, và sự hồi phục chắp vá của chuỗi cung ứng toàn cầu – có thể sẽ ngăn cản nền kinh tế hồi phục nhanh chóng, khiến lạm phát bị kìm hãm.
Các ngân hàng trung ương thường dễ đối phó với lạm phát hơn là giảm phát, vì họ có nhiều "dư địa" để tăng lãi suất từ các mức lãi suất thấp như hiện tại.