Sau 2 năm, tỉ lệ DN hưởng 'trái ngọt' từ CPTPP chưa cao
Đây là thông tin được chia sẻ tại Hội thảo công bố Báo cáo “Việt Nam sau 2 năm thực thi CPTPP từ góc nhìn doanh nghiệp” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Chương trình Aus4Reform - Đại sứ quán Australia tại Việt Nam phối hợp tổ chức ngày 7/4 tại Hà Nội.
Hiệp định CPTPP có hiệu lực đã hơn 2 năm, nhưng theo báo cáo của VCCI, những gì đã đạt được còn thấp hơn đáng kể so với kỳ vọng, nguyên nhân không chỉ từ các biến cố khách quan như tình hình căng thẳng thương mại toàn cầu hay đại dịch COVID-19, mà còn ở các vấn đề chủ quan của chính Nhà nước và các DN.
Phát biểu tại hội thảo, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI cho biết, năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, xuất khẩu của Việt Nam đi các thị trường đã phê chuẩn CPTPP chỉ đạt kim ngạch xấp xỉ năm 2019. Tuy nhiên, tín hiệu tích cực là tỉ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan CPTPP trong năm thứ 2 này đã được cải thiện.
Mặc dù vậy, việc hiện thực hóa các cơ hội từ CPTPP còn hạn chế mà theo các DN nhìn nhận là do sự thua kém về năng lực cạnh tranh, các biến động đầy tính bất định của thị trường.
Các DN phản ánh những vướng mắc như: Vẫn thiếu thông tin về các cam kết, các hạn chế khác trong tổ chức thực thi Hiệp định CPTPP và các hiệp định thương mại tự do (FTA) của các cơ quan nhà nước... Cuối cùng là một số nguyên nhân kỹ thuật như quy tắc xuất xứ, cam kết FTA bất lợi cho DN...
Khảo sát mức độ hiểu biết của DN về CPTPP, VCCI cho biết: Có 69% DN nghe nói hoặc biết sơ bộ về Hiệp định này, cao hơn tất cả các FTA khác; 25% DN có hiểu biết nhất định về Hiệp định. Dù vậy, đáng lo là cứ 20 DN mới có một DN biết rõ về các cam kết CPTPP liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình.
“Kết quả này cho thấy các nỗ lực tuyên truyền phổ biến chung về CPTPP đã có hiệu quả ban đầu tích cực nhưng mới trên bề mặt là chủ yếu”, Chủ tịch VCCI nhận định.
Về các tác động trực tiếp, cứ 4 DN thì mới có một DN đã từng được trải nghiệm “trái ngọt” từ Hiệp định CPTPP.
Đáng nói nhất là trong khi các DN FDI và dân doanh có cảm nhận rõ về tác động của CPTPP (với 51-52% DN của các nhóm này cho rằng CPTPP có tác động tích cực) thì khối DN 100% vốn nhà nước phần lớn đứng ngoài những tác động này.
“64% DN có vốn nhà nước 100% cho rằng CPTPP không tác động gì, với các FTA khác cũng như vậy. Dường như quá trình hội nhập theo chiều sâu thông qua CPTPP và các FTA chưa chạm tới khu vực này”, VCCI cho biết. Các DN FDI và dân doanh đã khởi động để tận dụng các ưu đãi thuế quan đầu tiên của Canada và Mexico, trong khi đó các DN 100% vốn nhà nước lại hầu như chưa hề tận dụng được cơ hội này.
Dưới góc độ thu hút đầu tư nước ngoài, kết quả năm đầu thực thi CPTPP không mấy khả quan. Năm 2019, Việt Nam thu hút xấp xỉ 9,5 tỷ USD vốn đầu tư từ các nước CPTPP, giảm gần 36% so với năm 2018. Xét theo từng đối tác, đầu tư từ Nhật Bản vào Việt Nam có mức giảm sâu nhất về giá trị (từ gần 9 tỷ USD năm 2018 giảm xuống còn hơn 4 tỷ USD năm 2019, tương đương giảm 52%).
Về tốc độ, vốn FDI giảm mạnh từ các nguồn truyền thống như Australia (giảm gần 63%), Malaysia (giảm 50%)… Mặc dù có một số lý do kỹ thuật khiến tốc độ tăng trưởng trong thu hút FDI từ CPTPP bị kéo mạnh nhưng trong tổng thể chung đây vẫn là kết quả ít nhiều gây thất vọng, đặc biệt khi tổng thu hút vốn FDI của Việt Nam từ tất cả các nguồn năm 2019 vẫn tăng 7,2% và tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của các đối tác CPTPP vẫn tăng 51,3% trong năm này.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) phân tích: với 3/4 DN chưa từng hưởng lợi ích trực tiếp nào từ CPTPP, lý do chủ yếu (60%) là họ không có bất kỳ hoạt động kinh doanh nào liên quan tới thị trường hay đối tác ở khu vực CPTPP trong hai năm vừa qua.
Điểm đáng lưu ý nữa là các cơ quan quản lý đã cố gắng hoàn thiện thể chế để thực thi CPTPP, trong đó, Quyết định 121/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch thực thi CPTPP của Chính phủ đã liệt kê cụ thể danh mục các văn bản cần xây dựng, sửa đổi, bổ sung và thời hạn thực hiện. Nhưng đến khi thực hiện, phần lớn các văn bản thực thi CPTPP đều được ban hành chậm tiến độ so với yêu cầu của cam kết (từ nửa tháng đến 20 tháng).
Với thực trạng trên, Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc cho rằng, các chương trình, hoạt động hỗ trợ DN cần tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, xúc tiến thương mại ở tầm quốc gia một cách hệ thống, được thiết kế theo nhóm đối tượng riêng, với ưu tiên đặc biệt dành cho các DN nhỏ, siêu nhỏ.
Bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) phân tích thêm, ở các sản phẩm nông sản, Việt Nam đã cố gắng cải thiện chất lượng, nhưng vì còn sản xuất nhỏ lẻ nên khó khăn trong cải thiện một cách đồng bộ.
Để tiếp tục tận dụng tốt hơn Hiệp định này thời gian tới, bà Nguyễn Cẩm Trang cho rằng, các cơ quan quản lý cần rà soát quy định pháp luật liên quan, cải thiện môi trường kinh doanh thuận lợi cho DN. Đồng thời, tăng cường về truyền thông, thông tin về thị trường, định hướng cho DN trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình, giúp nâng cao năng lực cho DN
“Cần xác định rõ, gia nhập Hiệp định CPTPP ngoài việc giúp DN tăng xuất khẩu thì còn là động lực để cải thiện môi trường kinh doanh, tạo sức ép về cạnh tranh buộc DN phải nâng cao tiêu chuẩn hàng hóa và năng lực của mình”, bà Nguyễn Cẩm Trang nhấn mạnh.