Giá tiêu hôm nay 22/11: Tăng đồng loạt, vượt ngưỡng 71.000 đồng/kg
Cập nhật giá tiêu
Giá tiêu trong nước
Xem thêm: Giá tiêu hôm nay 23/11
Theo khảo sát, giá tiêu đang nằm trong khoảng 68.500 - 71.500 đồng/kg tại thị trường nội địa, sau khi tăng đồng loạt 500 đồng/kg so với hôm qua.
Sau khi điều chỉnh, tỉnh Đồng Nai và Gia Lai lần lượt ghi nhận mức giá là 68.500 đồng/kg và 69.000 đồng/kg.
Song song đó, hồ tiêu tại hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông đang được thu mua với mức giá chung là 70.000 đồng/kg.
Tương tự, giá tiêu hôm nay tại Bình Phước và Bà Rịa - Vũng Tàu lần lượt lên mức 71.000 đồng/kg và 71.500 đồng/kg.
Tỉnh/huyện (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua (Đơn vị: đồng/kg) |
Thay đổi so với hôm qua (Đơn vị: đồng/kg) |
Đắk Lắk |
70.000 |
+500 |
Gia Lai |
69.000 |
+500 |
Đắk Nông |
70.000 |
+500 |
Bà Rịa - Vũng Tàu |
71.500 |
+500 |
Bình Phước |
71.000 |
+500 |
Đồng Nai |
68.500 |
+500 |
Giá tiêu thế giới
Theo cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) vào ngày 21/11 (theo giờ địa phương), giá tiêu đen Lampung (Indonesia) giảm 0,12% so với ngày 20/11.
Song song đó, giá tiêu đen Brazil ASTA 570 và tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA vẫn duy trì ổn định.
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới (ĐVT: USD/tấn) |
||
Ngày 20/11 |
Ngày 21/11 |
% thay đổi |
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
4.077 |
4.072 |
-0,12 |
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
3.000 |
3.000 |
0 |
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
4.900 |
4.900 |
0 |
Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok giảm 0,11% so với phiên hôm trước, trong khi giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có điều chỉnh mới.
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới (ĐVT: USD/tấn) |
||
Ngày 20/11 |
Ngày 21/11 |
% thay đổi |
|
Tiêu trắng Muntok |
6.289 |
6.282 |
-0,11 |
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
7.300 |
7.300 |
0 |
Theo Báo Đại Đoàn Kết, lũy kế hết tháng 10/2023, Việt Nam xuất khẩu được 223.578 tấn hồ tiêu các loại, với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 750,8 triệu USD, bao gồm tiêu đen đạt 640,2 triệu USD, tiêu trắng đạt 110,6 triệu USD.
So với cùng kỳ năm ngoái, lượng xuất khẩu tăng 14,6%, tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu lại giảm 11,7%.
Giá xuất khẩu bình quân tiêu đen 10 tháng đạt 3.553 USD/tấn, tiêu trắng đạt 5.082 USD/tấn, so với cùng kỳ năm trước, giá xuất khẩu giảm 17,6% đối với tiêu đen và 15,6% đối với tiêu trắng.
Theo VPA, Việt Nam đã xuất khẩu hết sản lượng thu hoạch trong năm 2023, một phần xuất khẩu được lấy đi từ lượng nhập khẩu cũng như tồn kho từ năm trước.
Dự kiến cả năm 2023, lượng xuất khẩu sẽ đạt 250 nghìn tấn. Theo đó, lượng tồn kho 2023 chuyển sang năm 2024 sẽ thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Bà Hoàng Thị Liên, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và Gia vị, cho biết, mặc dù điều kiện thị trường khó khăn trong đó thị trường EU và Mỹ trầm lắng hơn, nhưng ngành hồ tiêu vẫn đạt thành tích xuất khẩu tốt, tăng về số lượng, tuy nhiên giảm về giá trị so với năm ngoái.
Vụ hồ tiêu năm 2024 sẽ bắt đầu trong gần 2 tháng nữa tại khu vực Đắk Nông, nơi được coi là vùng trọng điểm nhất của hồ tiêu Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, tình hình mưa lũ vào tháng 7 vừa qua được đánh giá sẽ ảnh hưởng tới vụ thu hoạch hồ tiêu sắp tới, cộng với diễn biến dự đoán hiện tượng El Nino sẽ xảy ra vào cuối năm có thể dẫn tới sản lượng hồ tiêu Việt Nam năm 2024 sẽ giảm so với năm 2023.
Theo dự báo, trong năm tới, sản lượng hồ tiêu có thể giảm đến 15% do giảm diện tích, do thời điểm hồ tiêu ra hoa gặp thời tiết bất lợi và nhiều diện tích bị chuyển sang trồng sầu riêng.
Tại cuộc họp của VPA quý III/2023 mới đây, các DN cho rằng VPA cần thực hiện khảo sát về tình hình phát triển sầu riêng hiện nay để đánh giá diện tích chuyển đổi từ hồ tiêu sang cây sầu riêng cũng như cây trồng khác.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng mong muốn VPA có chiến lược sắp xếp hỗ trợ các doanh nghiệp liên kết với nông dân để thực hiện truy xuất nguồn gốc.
Đặc biệt, quy định của EU về phá rừng, nguy hại tới rừng trước mắt áp dụng cho 6 ngành hàng: cà phê, đậu nành, gỗ, gia súc, cacao, cao su, sắp tới có thể sẽ áp dụng cho hồ tiêu. Do đó, các doanh nghiệp cho rằng VPA cần có sự chuẩn bị trước cho quy định này.
Cập nhật giá cao su
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su kỳ hạn giao tháng 11/2023 đạt mức 252,1 yen/kg, không có thay đổi tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h00 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 1/2024 được điều chỉnh xuống mức 14.070 nhân dân tệ/tấn, giảm 1,57% (tương đương 225 nhân dân tệ) so với giao dịch trước đó.
Trong 9 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cao su tự nhiên (không bao gồm cao su hỗn hợp) của Thái Lan đạt gần 1,99 triệu tấn, giảm 23% so với cùng kỳ năm 2022, theo báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương).
Trong đó, tổng lượng cao su tiêu chuẩn xuất khẩu đạt gần 1,12 triệu tấn, giảm 15%, xuất khẩu cao su hun khói đạt 271 nghìn tấn, giảm 21%, xuất khẩu mủ cao su đạt 585 nghìn tấn, giảm 33% so với cùng kỳ năm 2022.
Cũng trong 9 tháng đầu năm nay, xuất khẩu cao su tự nhiên của Thái Lan sang Trung Quốc đạt 766 nghìn tấn, giảm 3% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, tổng lượng cao su tiêu chuẩn xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 497 nghìn tấn, tăng 23%. Tổng xuất khẩu cao su hun khói sang Trung Quốc đạt 58 nghìn tấn, tăng 32%, tổng lượng mủ cao su xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 212 nghìn tấn, giảm 35% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 8 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cao su tự nhiên (không bao gồm cao su tổng hợp) của Indonesia đạt 1,21 triệu tấn, giảm 18% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, xuất khẩu cao su tiêu chuẩn đạt 1,18 triệu tấn, giảm 18%; Xuất khẩu cao su hun khói đạt 27 nghìn tấn, giảm 20%; Xuất khẩu mủ cao su 2,7 nghìn tấn, tăng 89% so với cùng kỳ năm 2022.
Xuất khẩu cao su tự nhiên của Indonesia sang Trung Quốc trong 8 tháng đầu năm 2023 đạt 148 nghìn tấn, tăng 40% so với cùng kỳ năm 2022.
Theo báo cáo của Tổng cục Cao su Campuchia, trong 9 tháng đầu năm 2023, Campuchia đã xuất khẩu được 242.304 tấn cao su khô, thu về 320 triệu USD, tăng 3,5% về lượng, nhưng giảm 9,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Giá xuất khẩu bình quân đạt 1.323 USD/ tấn, thấp hơn khoảng 196 USD/tấn so với cùng kỳ năm 2022.
Cao su của Campuchia được xuất khẩu chủ yếu sang Malaysia, Việt Nam, Singapore và Trung Quốc. Hiện, diện tích trồng cây cao su của Campuchia đạt 404.578 ha, trong đó 315.332 ha (tương đương 78%) đã đủ tuổi để khai thác mủ.