|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Giá tiêu hôm nay 15/9: Tăng 2.000 – 3.000 đồng/kg trong tuần qua

07:51 | 15/09/2024
Chia sẻ
Giá tiêu tuần qua tăng 2.000 – 3.000 đồng/kg ở các địa phương trọng điểm, lên mức 152.000 – 156.000 đồng/kg. Bên cạnh đó, giá xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế cũng tăng đáng kể, đặc biệt là mặt hàng tiêu trắng.

Cập nhật giá tiêu

Tại thị trường trong nước

Kết thúc tuần qua, giá tiêu tại khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ dao động trong khoảng 152.000 – 156.000 đồng/kg, tăng 2.000 – 3.000 đồng/kg so với ngày đầu tuần.

Cụ thể, tại tỉnh Đắk Nông và tỉnh Đắk Lắk, giá tiêu đang được đại lý thu mua với giá cao nhất là 156.000 đồng/kg, tăng 3.000 đồng/kg trong tuần qua.

Giá tiêu tại tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũng tăng 2.000 đồng/kg trong tuần qua, ở mức 155.000 đồng/kg.

Tương tự, giá tiêu tại Gia Lai tăng 2.000 đồng/kg và kết thúc tuần qua ở mức 154.000 đồng/kg.

Bình Phước là tỉnh duy nhất giá tiêu đi ngang trong cả tuần vừa qua ở mức 152.000 đồng/kg.

Như vậy, giá tiêu đen trên thị trường nội địa Việt Nam đã tăng liên tiếp trong 4 tuần gần đây, với tổng mức tăng vào khoảng 10,5 – 12,6% (tương ứng 14.500 – 17.500 đồng/kg) so với thời điểm giữa tháng 8.

Tỉnh/huyện

(khu vực khảo sát)

Giá thu mua ngày 9/9 (Đơn vị: VNĐ/kg)

Giá thu mua ngày 14/9 (Đơn vị: VNĐ/kg)

Thay đổi (Đơn vị: VNĐ/kg)

Đắk Lắk

153.000

156.000

+3.000

Gia Lai

152.000

154.000

+2.000

Đắk Nông

153.000

156.000

+3.000

Bà Rịa - Vũng Tàu

153.000

155.000

+2.000

Bình Phước

152.000

152.000

-

Đồng Nai

153.000

155.000

+2.000

Nguồn: Hoàng Hiệp tổng hợp từ giatieu.com

Trên thị trường thế giới

Theo dữ liệu từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC), giá tiêu đen xuất khẩu của Việt Nam có phiên tăng và phiên giảm, nhưng tính chung cả tuần vẫn tăng khoảng 100 – 200 USD/tấn (1,4 – 3%), đạt 6.800 USD/tấn với loại 500 g/l và 7.100 USD/tấn cho loại 550 g/l.

Giá tiêu đen Lampung (Indonesia) cũng tăng 0,3% trong tuần qua, lên mức 7.562 USD/tấn.

Ở các nơi khác, giá tiêu đen Brazil ASTA 570 đi ngang ở mức 7.500 USD/tấn; tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA đạt 8.800 USD/tấn.

Tên loại

Bảng giá tiêu đen thế giới  (ĐVT: USD/tấn) 

Ngày 9/9

Ngày 14/9

% thay đổi

Tiêu đen Lampung (Indonesia)

7.542

7.562

0,3

Tiêu đen Brazil ASTA 570

7.500

7.500

0,0

Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA

8.800

8.800

0,0

Tiêu đen Việt Nam (500 g/l)

6.600

6.800

3,0

Tiêu đen Việt Nam (500 g/l)

7.000

7.100

1,4

Trên thị trường tiêu trắng, giá tiêu trắng của Việt Nam tăng mạnh hơn 9% (850 USD/tấn) trong tuần qua, lên mức 10.150 USD/tấn.

Tại Indonesia, giá tiêu trắng Muntok tăng 0,3% trong tuần qua, ở mức 9.121 USD/tấn.

Tên loại

Bảng giá tiêu trắng thế giới (ĐVT: USD/tấn)

Ngày 9/9

Ngày 15/9

% thay đổi

Tiêu trắng Muntok (Indonesia)

9.097

9.121

+0,3

Tiêu trắng Malaysia ASTA

10.900

10.900

0

Tiêu trắng Việt Nam

9.300

10.150

+9,1

Giá tiêu liên tục tăng cao trong những tuần gần đây do nhu cầu thị trường vẫn ở mức cao, đặc biệt là Trung Quốc đã quay trở lại mua khối lượng lớn sau quãng thời gian dài giảm mua.

Trong khi đó, các báo cáo gần đây cho thấy nguồn cung toàn cầu có xu hướng giảm.

Hạn hán đã tác động mạnh tới vụ thu hoạch năm nay của Brazil và Campuchia. Còn tại Việt Nam, sản lượng năm 2024 giảm 10% xuống còn 170.000 tấn, trong khi lượng xuất khẩu 8 tháng cũng đã vượt con số này.

Theo Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam (VPSA), tính đến hết tháng 8, Việt Nam đã xuất khẩu được 183.756 tấn hồ tiêu các loại với tổng kim ngạch đạt 881,2 triệu USD, giảm 2,1% về lượng tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu lại tăng đến 43% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, đa phần khối lượng xuất khẩu của các doanh nghiệp lớn đều tăng rất mạnh ở mức hai đến ba con số.

Đơn cử như Olam Việt Nam đạt 18.185 tấn, tăng 50,6%; Phúc Sinh: 16.522 tấn, tăng 61,7%; Nedspice Việt Nam: 13.953 tấn, tăng 14,1%; Haprosimex JSC: 13.808 tấn, tăng 77% và Trân Châu: 11.426 tấn, giảm 6,5%…

Ngoài ra còn có một số doanh nghiệp có lượng xuất khẩu tăng trưởng đột biến như Simexco Đăk Lăk tăng 215,1%; Sinh Lộc Phát tăng 124,2%; Hanfimex Việt Nam tăng 94,2%; Intimex Group tăng 85,6%; Liên Thành tăng 60,3%…

Tuy nhiên, theo VPSA, tồn kho vụ 2023 chuyển sang cộng với lượng nhập khẩu năm 2024 vào khoảng 40.000 - 45.000 tấn (kể cả nhập khẩu tiểu ngạch) cho thấy nguồn hàng xuất khẩu từ tháng 8 cho tới cuối năm sẽ thấp hơn mọi năm và cho đến tháng 3/2025 khi vụ mùa 2025 dự kiến sẽ thu hoạch.

Hoàng Hiệp