|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Giá phân bón ngày 17/7 đồng loạt đứng yên, phân NPK 16 - 16 - 8 bình ổn

09:26 | 17/07/2025
Chia sẻ
Theo khảo sát, giá phân bón hôm nay (17/7) không ghi nhận điều chỉnh mới. Trong đó, giá phân NPK 16 - 16 - 8 nằm trong khoảng 650.000 - 750.000 đồng/bao, giữ nguyên so với hôm trước.

Tại khu vực Đông Nam Bộ - Tây Nguyên

Ghi nhận hôm nay (17/7) cho thấy, giá phân bón duy trì đi ngang tại khu vực Đông Nam Bộ - Tây Nguyên. 

Chi tiết như sau, phân urê Cà Mau, Phú Mỹ có mức giá dao động lần lượt là 610.000 - 650.000 đồng/bao và từ 610.000 - 660.000 đồng/bao. 

Tương tự, 890.000 - 930.000 đồng/bao là mức niêm yết đối với phân NPK 20 - 20 - 15 TE Bình Điền.

Đơn vị tính: đồng/bao

KHU VỰC ĐÔNG NAM BỘ - TÂY NGUYÊN

Tên loại

Ngày 15/7

    Ngày 17/7

Thay đổi

Phân URÊ

Cà Mau

610.000 - 650.000

610.000 - 650.000

-

Phú Mỹ

610.000 - 660.000

610.000 - 660.000

-

Phân KALI bột

Cà Mau

500.000 - 580.000

500.000 - 580.000

-

Phú Mỹ

490.000 - 570.000

490.000 - 570.000

-

Phân NPK 16 - 16 - 8

Cà Mau

660.000 - 750.000

660.000 - 750.000

-

Phú Mỹ

650.000 - 750.000

650.000 - 750.000

-

Đầu Trâu

670.000 - 750.000

670.000 - 750.000

-

Phân NPK 20 - 20 - 15 TE

Bình Điền

890.000 - 930.000

890.000 - 930.000

-

Phân Lân

Lâm Thao

290.000 - 330.000

290.000 - 330.000

-

Số liệu: 2nong.vn

Tại khu vực miền Bắc

Cũng theo khảo sát, thị trường phân bón tại đứng yên tại khu vực miền Bắc. 

Cụ thể, phân NPK 16 - 16 - 9 Việt Nhật, Phú Mỹ có giá niêm yết lần lượt là 730.000 - 760.000 đồng/bao và 750.000 - 760.000 đồng/bao.

Song song đó, 540.000 - 590.000 đồng/bao là mức giá niêm yết đối với phân urê Hà Bắc, Phú Mỹ. 

Đơn vị tính: đồng/bao

KHU VỰC MIỀN BẮC

Tên loại

Ngày 15/7

Ngày 17/7

Thay đổi

Phân URÊ

Hà Bắc

560.000 - 590.000

560.000 - 590.000

-

Phú Mỹ

540.000 - 580.000

540.000 - 580.000

-

Phân NPK 16 - 16 - 8 + TE

Việt Nhật

420.000 - 440.000

420.000 - 440.000

-

Phân Supe Lân

Lâm Thao

250.000 - 270.000

250.000 - 270.000

-

Phân NPK 16 - 16 - 8

Việt Nhật

730.000 - 760.000

730.000 - 760.000

-

Phú Mỹ

750.000 - 760.000

750.000 - 760.000

-

Phân KALI bột

Canada

510.000 - 530.000

510.000 - 530.000

-

Hà Anh

510.000 - 540.000

510.000 - 540.000

-

Số liệu: 2nong.vn

  Nguồn: WiChart.vn 

Ấn Độ xem xét lại chiến lược dầu mỏ khi chiết khấu từ Nga giảm dần

Theo Oil Price, lượng dầu thô nhập khẩu từ Nga vào Ấn Độ đã tăng nhẹ 1% trong nửa đầu năm 2025, đạt tổng cộng khoảng 1,75 triệu thùng mỗi ngày. Con số này khó có thể gọi là đột biến, nếu xét đến sức hấp dẫn về giá đã kéo Ấn Độ vào sâu hơn quỹ đạo dầu mỏ của Moscow sau cuộc xâm lược Ukraine năm 2022. 

Và mặc dù Nga vẫn giữ vị trí nhà cung cấp hàng đầu, chiếm 35% lượng dầu thô nhập khẩu vào Ấn Độ, nhưng câu chuyện thực sự không nằm ở khối lượng. Mà nằm ở lợi thế đang thu hẹp.

 

Mức chiết khấu cho dầu thô Ural đã thu hẹp xuống chỉ còn 1,70 – 2 đô la/thùng so với dầu Brent, mức thấp nhất kể từ khi chiến tranh nổ ra. Một năm trước, các nhà máy lọc dầu Ấn Độ đã mua dầu thô Nga với mức giá giảm mạnh hơn nhiều. 

Nhưng sự kết hợp giữa việc giảm nguồn cung giao ngay, bảo trì nhà máy lọc dầu ở Nga và các hợp đồng kỳ hạn cố định (như việc Rosneft cung cấp cho Reliance) đã thu hẹp khả năng tiếp cận và thu hẹp chênh lệch giá.

Chi phí vận chuyển, vốn là một yếu tố bất định, đã tạm thời giảm xuống. Cước vận chuyển từ các cảng Baltic đến Ấn Độ đã giảm xuống còn 5,0–5,3 triệu đô la mỗi tàu Aframax vào tháng 7, khi ngày càng nhiều tàu chở dầu được phương Tây bảo hiểm đi vào hoạt động. 

Nhưng cơ hội đó có thể lại đóng sập một lần nữa. EU đang chuẩn bị gói trừng phạt thứ 18, có thể hạ trần giá dầu xuống còn 45 đô la. Và Tổng thống Trump, khi trở lại Nhà Trắng, vừa đe dọa sẽ trừng phạt những người mua dầu của Nga trừ khi một thỏa thuận hòa bình được thực hiện trong vòng 50 ngày.

Các nhà máy lọc dầu Ấn Độ chưa hoảng loạn, nhưng họ đang chuẩn bị. Một số đã chuyển hướng quan tâm sang Murban hoặc WTI. Và trong hậu trường, Ấn Độ đang âm thầm xây dựng ba kho dự trữ chiến lược mới.

Tổng lượng dầu nhập khẩu của Ấn Độ đã tăng 4,3% trong nửa đầu năm, lên 5,2 triệu thùng/ngày. Nhưng đà giảm giá dễ dàng của Nga có thể sắp kết thúc. Như một thương nhân đã nói, biến động giá cước vận tải đang ngủ yên, chứ chưa chết hẳn.

 Ảnh: Gia Ngọc




 

 

Gia Ngọc

Data Talk | The Catalyst: Tôm & Cá tra 2026 – Bước vào chu kỳ mới hay còn điều chỉnh sâu?
Ngành thủy sản bước vào giai đoạn bản lề trước năm 2026 khi nguồn cung toàn cầu biến động mạnh, chi phí sản xuất thay đổi và cấu trúc thị trường xuất khẩu có sự dịch chuyển rõ rệt. Trong bối cảnh xuất khẩu tôm tăng trưởng trở lại, còn cá tra đối mặt áp lực dài hạn, câu hỏi lớn đặt ra là: đã hình thành một chu kỳ mới hay thị trường vẫn đang trong pha điều chỉnh?