Giá cà phê hôm nay 12/6: Giảm 500 đồng/kg, giá tiêu tăng 500 - 1.000 đồng/kg
Cập nhật giá cà phê
Giá cà phê hôm nay tiếp tục giảm 300 đồng/kg trên toàn Tây Nguyên xuống còn khoảng 31.600 - 32.600 đồng/kg. Trong đó, giá cà phê cao nhất ghi nhận tại tỉnh Đắk Lắk và thấp nhất tại Lâm Đồng, theo giacaphe.com.
Giá cà phê quanh cảng TP HCM giảm 37 USD/tấn xuống 1.343 USD/tấn.
Giá cà phê trong nước
TT nhân xô | Giá trung bình | Thay đổi | |||
---|---|---|---|---|---|
FOB (HCM) | 1.343 | Trừ lùi: -45 | |||
Đắk Lăk | 32.600 | -500 | |||
Lâm Đồng | 31.600 | -500 | |||
Gia Lai | 32.400 | -500 | |||
Đắk Nông | 32.400 | -500 | |||
Hồ tiêu | 45,000 | 0 | |||
Tỷ giá USD/VND | 23.280 | -30 | |||
Đơn vị tính: VND/kg|FOB: USD($)/tấn |
Kết phiên giao dịch hôm 11/6, giá cà phê giao trong tháng 7 giảm 1,5% xuống 1.393 USD/. Giá cà phê arabica giao trong tháng 7 giảm 1,2% xuống 97,3 USCent/pound.
Giá cà phê trong tháng 5 ở thị trường thế giới tăng trở lại sau khi liên tục sụt giảm thời gian trước. Yếu tố thời tiết không thuận lợi tại Brazil đã hỗ trợ giá cà phê toàn cầu, theo Cục Xuất nhập khẩu. Các vùng trồng cà phê chính ở phía Đông Nam Brazil có mưa kéo dài, gây cản trở việc thu hoạch vụ mùa đang diễn ra và mối lo chất lượng hạt cà phê giảm cũng tác động đến tâm lý thị trường.
Theo báo cáo của Safras & Mercado, Brazil đã thu hoạch khoảng 16,1% sản lượng vụ mùa mới, trong đó cà phê Conilon Robusta đã thu hoạch khoảng 30% và cà phê Arabica mới thu hoạch khoảng 10%. Bên cạnh đó, đồng Real của Brazil tăng giá so với đồng USD đã làm giảm lợi nhuận nên không khuyến khích nông dân bán ra.
Tuy nhiên, nguồn cung dồi dào vẫn là áp lực đè nặng lên thị trường cà phê toàn cầu. Sản xuất cà phê từ Việt Nam - nhà sản xuất lớn thứ hai thế giới - đang tăng trưởng nhanh. Hiện nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đang có nhiều chương trình dự án cho phát triển cây cà phê bền vững, điển hình là dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (VnSAT).
Cập nhật giá hồ tiêu
Giá tiêu hôm nay ở khu vực Tây Nguyên hôm nay tăng 500 - 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 44.000 - 45.000 đồng/kg, theo dữ liệu từ tintaynguyen.com.
Trong đó, mức tăng 500 đồng/kg ghi nhận tại tỉnh Bình Phước. Tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông đồng loạt tăng 1.000 đồng/kg.
Tỉnh /huyện (khu vực khảo sát) | Giá thu mua Đơn vị: VNĐ/kg |
---|---|
ĐẮK LẮK | |
— Ea H'leo | 45.000 |
GIA LAI | |
— Chư Sê | 45.000 |
ĐẮK NÔNG | |
— Gia Nghĩa | 45.000 |
BÀ RỊA - VŨNG TÀU | |
— Tiêu | 46.000 |
BÌNH PHƯỚC | |
— Tiêu | 45.000 |
ĐỒNG NAI | |
— Tiêu | 44.000 |
Theo thống kê của Cục Bảo vệ thực vật – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến hết năm 2018, diện tích hạt tiêu toàn vùng Tây Nguyên là hơn 89.000 ha, thấp hơn năm 2017 khoảng 3.000 ha. Trong đó hạt tiêu tập trung chủ yếu ở tỉnh Gia Lai gần 16.300 ha, Đắk Nông hơn 34.000 ha và Đắk Lắk hơn 36.600 ha.
Trong 20 ngày đầu tháng 5/2019, giá hạt tiêu tại thị trường trong nước ổn định hoặc giảm so với tháng 4/2019, tùy từng địa phương. Ngày 20/5/2019, giá hạt tiêu tại thị trường trong nước ở mức thấp nhất là 43.000 đ/kg tại Chư Sê và Đồng Nai; cao nhất 45.000 đ/kg tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Cập nhật giá cao su
Trên sàn TOCOM (Nhật Bản), giá cao su giao tháng 9/2019 lúc 10h45 ngày 4/6 (giờ địa phương) tăng 2,5% lên 212 yen/kg.
Theo Cơ quan Hải quan Thái Lan, tháng 4/2019, xuất khẩu cao su của Thái Lan đạt 363,29 nghìn tấn, trị giá 15,93 tỷ Baht (tương đương 498,07 triệu USD), giảm 31,1% về lượng và giảm 34% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.
Trong đó, Trung Quốc, Malaysia và Hoa Kỳ là 3 thị trường xuất khẩu cao su chính của Thái Lan. Trong tháng 4/2019, xuất khẩu cao su của Thái Lan sang Trung Quốc đạt 179,77 nghìn tấn, trị giá 7,79 tỷ Baht (tương đương 243,37 triệu USD), giảm 45,7% về lượng và giảm 48,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018, chiếm 49,5% thị phần xuất khẩu cao su của Thái Lan, giảm mạnh so với mức 62,8% của cùng kỳ năm 2018.
Lũy kế 4 tháng đầu năm 2019, Thái Lan xuất khẩu 1,74 triệu tấn cao su, trị giá 72,14 tỷ Baht (tương đương 2,26 tỷ USD), giảm 2,8% về lượng và giảm 11% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018, trong đó xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 914,83 nghìn tấn, trị giá 37,41 tỷ Baht (tương đương với 1,17 tỷ USD), giảm 8,1% về lượng và giảm 17,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.