|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Quốc tế

Bloomberg: Mỹ đang phải trả giá vì có quá nhiều ngân hàng

15:09 | 30/03/2023
Chia sẻ
Mỹ là quốc gia có số ngân hàng nhiều nhất trên thế giới. Việc thừa ngân hàng đang tạo ra sự bất ổn cho hệ thống tài chính của Mỹ.

Mỹ thừa ngân hàng

Theo Bloomberg, khi Signature Bank New York được Tổ chức Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) nắm quyền kiểm soát, người gửi tiền tại bang Arkansas, Georgia hay Ohio xa xôi cũng cảm thấy sợ hãi. Nguyên nhân là bởi có tới 4 ngân hàng cùng tên Signature Bank tại Mỹ, và khách hàng không biết chắc ngân hàng nào đang gặp vấn đề.

Signature Bank Arkansas đã phải viết trên Twitter: “Xin được nhắc lại, chúng tôi là Signature Bank >>của Arkansas<<”, trước khi đưa ra một tuyên bố công khai.

Câu chuyện của Signature Bank Arkansas cho thấy số lượng ngân hàng tại Mỹ nhiều như thế nào. Vào cuối năm ngoái, có 4.706 ngân hàng thương mại tại Mỹ, cao hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới. 

Mỹ có số ngân hàng nhiều hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới.

Riêng bang North Dakota của Mỹ đã có nhiều ngân hàng hơn cả nước Canada, nền kinh tế lớn thứ 9 thế giới. Nhật Bản, nền kinh tế số 3 toàn cầu, có số ngân hàng chỉ bằng 4% của Mỹ. Liên minh châu Âu, bao gồm 27 quốc gia thành viên, chỉ có 1,2 ngân hàng/100.000 người, so với 1,4 của Mỹ.

Tại Mỹ có nhiều tổ chức nhận tiền gửi và cho vay bởi tính chất lịch sử. Từ giữa thập niên 1980 trở về trước, nhiều bang không cho phép ngân hàng hoạt động ngoài lãnh thổ bang. Một số thậm chí còn không cho phép các chi nhánh vượt qua ranh giới quận.

Mãi đến năm 1994, sau khi Đạo luật Ngân hàng Liên bang Riegle-Neal được thông qua, những hạn chế về hoạt động của ngân hàng mới được dỡ bỏ hoàn toàn. Những thay đổi trên đã dẫn tới một loạt vụ sáp nhập. Trong 30 năm qua, số lượng ngân hàng tại Mỹ đã giảm với tốc độ khoảng 3%/năm.

Tuy nhiên, sau hàng loạt các vụ sáp nhập và mua lại (cũng như sụp đổ), Mỹ có lẽ vẫn có quá nhiều ngân hàng. Người tiêu dùng có nhiều lựa chọn, nhưng cạnh tranh trong một hệ thống phân mảnh như tại Mỹ cũng tạo nên bất ổn.

Không thiếu những bài học về việc cạnh tranh có thể khiến các chủ ngân hàng lạc lối như nào. Ông Chuck Prince, cựu Chủ tịch và CEO của Citigroup, đã từng tuyên bố rằng: “miễn là nhạc vẫn còn thì bạn phải đứng dậy và nhảy”. 15 tháng sau, Citigroup cần chính phủ cứu trợ để tránh sụp đổ khi khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 nổ ra.

Gần đây, các giám đốc của Silicon Valley Bank (SVB) đã sẵn sàng chấp nhận nhiều rủi ro hơn, bởi những khoản thù lao của lãnh đạo được tính toán trực tiếp từ tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu so với “các đối thủ cùng ngành”.

Để có được lợi thế cạnh tranh hơn trong ngành ngân hàng, CEO của Silvergate, ông Alan Lane đã gọi tiền mã hóa là “một cơ hội để phục vụ những công ty bị các ngân hàng khác từ chối”.

Ổn định hay cạnh tranh

Khi phải lựa chọn giữa ổn định tài chính và tính cạnh tranh của thị trường, các nhà chức trách đa phần sẽ theo phương án đầu. Tuần trước, Chủ tịch của Cơ quan Giám sát Thị trường Tài chính Thụy Sỹ (FINMA) đã bỏ qua những lo ngại về chống độc quyền, và cho phép UBS mua lại Credit Suisse.

Các nhà quản lý Anh cũng đã sử dụng chính sách tương tự trong cuộc khủng hoảng năm 2008. Bất chấp một số sự phản đối, HBOS đã bị Lloyds-TSB mua lại, khiến 1/3 tài sản vãng lai cá nhân tại Anh rơi vào tay một tổ chức tài chính duy nhất.

Bộ trưởng Ngoại giao Anh lúc bấy giờ, ông Peter Mandelson từng tuyên bố: “Lợi ích của việc đảm bảo ổn định cho hệ thống tài chính Anh lớn hơn những lo ngại về cạnh tranh”.

Trong khi đó, Mỹ thường e dè về đánh đổi tính cạnh tranh lấy ổn định. Một phần nguyên nhân là bởi sự tôn trọng với thị trường tự do, nhưng phần lớn là do các ngân hàng nhỏ có sức ảnh hưởng đáng kể trong chính trị. Ngân hàng nhỏ xuất hiện trong 25 nhà tài trợ hàng đầu của các nghị sỹ Mỹ nhiều hơn so với ngân hàng lớn, theo dữ liệu của nhà phân tích Byrne Hobart.

JPMorgan và Bank of America là hai tổ chức nắm trong tay hơn 10% tiền gửi của toàn nước Mỹ. 

Đạo luật Riegle-Neal giới hạn một ngân hàng chỉ được quản lý tối đa 10% tổng tiền gửi của cả nước. Với sự chấp thuận của Fed, giới hạn này có thể được nới trong trường hợp một ngân hàng mua một ngân hàng khác “bị vỡ nợ hoặc sắp vỡ nợ”. Tuy nhiên, ngay cả với ngoại lệ trên, các nhà quản lý vẫn không muốn để những ngân hàng lớn mua lại SVB.

Các quy định này khiến hệ thống ngân hàng Mỹ chia làm hai cấp bậc: Những ngân hàng lớn chịu sự giám sát chặt chẽ, và một loạt các ngân hàng nhỏ không bị quản lý. Cuộc khủng hoảng gần đây đã cho thấy tác động của việc thiếu quản lý với các ngân hàng nhỏ. 

Để khắc phục khủng hoảng, các cơ quan quản lý có thể phải tăng mạnh giới hạn bảo hiểm tiền gửi. Động thái trên có thể khiến khách hàng là người chịu thiệt khi các ngân hàng chuyển mức phí bảo hiểm cao hơn sang người gửi tiền. Cạnh tranh luôn đi kèm với chi phí: hoặc là sự bất ổn lớn hơn, hoặc là phí bảo hiểm cao hơn.

Minh Quang