Với Fed, lạm phát 3% có thể còn đáng sợ hơn cả 8%
Tình huống điên rồ
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã nâng lãi suất lên thêm 75 điểm cơ bản trong cuộc họp ngày 2/11. Tiếp theo, câu chuyện lạm phát của Mỹ có thể sẽ diễn ra như sau: Fed tiếp tục tăng lãi suất trong tháng 12 và tháng 2 năm sau nhưng với quy mô nhỏ hơn – giống như kỳ vọng của thị trường.
Sau đó, lạm phát sẽ giảm từ 8% xuống còn 2%, còn tỷ lệ thất nghiệp chỉ tăng khiêm tốn lên 4,5%. Đây là kịch bản mà Fed mong đợi.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu lạm phát không quay trở về ngưỡng 2% mà trụ ở mức cao hơn, ví dụ như 3%? Theo tờ Reuters, đó sẽ là lúc tình hình trở nên điên rồ.
Chủ tịch Fed Jerome Powell chỉ có một công cụ được lịch sử chứng minh là hữu hiệu trong việc khống chế lạm phát: lãi suất. Nhưng môi trường kinh tế hiện nay có nhiều điều mới mẻ và bất thường. Người tiêu dùng vẫn chi tiêu mạnh tay bất chấp giá hàng hóa và dịch vụ trở nên đắt đỏ hơn.
Một số chỉ báo gợi ý rằng lạm phát đang đi xuống. Tuy nhiên, các tín hiệu khác lại cho thấy nền kinh tế Mỹ vẫn còn quá nóng, ví dụ như sự gia tăng số việc làm mới trong tháng 9.
- TIN LIÊN QUAN
-
Thử thách của Fed: Trung bình lạm phát mất 10 năm để quay về mức 2% 23/09/2022 - 07:49
Suốt nhiều năm trước, các ngân hàng trung ương đã cố gắng kéo lạm phát lên mức 2%.
Cần bao nhiêu thời gian để đưa lạm phát hiện tại xuống con số mục tiêu đó là câu hỏi chưa ai biết lời giải.
Dòng chảy thương mại toàn cầu đã chậm lại, nhưng giá năng lượng khó lòng đi xuống chừng nào cuộc chiến ở Ukraine còn tiếp diễn.
Viện Brookings dự đoán các di chứng hậu COVID sẽ tiếp tục ngăn cản 4 triệu người Mỹ tham gia vào lực lượng lao động. Điều này có thể sẽ khiến nền kinh tế Mỹ trở nên kém năng suất hơn hoặc làm gia tăng chi phí y tế quốc gia.
Thêm nữa, các quan chức Fed nói rằng tốc độ tăng trưởng nhìn có vẻ đang quá cao (tức nền kinh tế đang quá nóng) nhưng thực chất lại thấp hơn ước tính trước đó, theo biên bản cuộc họp tháng 9.
Kẹt giữa hai lựa chọn tệ hại
Kịch bản ác mộng đối với ngân hàng trung ương Mỹ là lạm phát rút về ngưỡng cao hơn mục tiêu của họ và sau đó đi ngang. Khi đó, hướng đi của các nhà hoạch định chính sách sẽ mù mờ hơn bây giờ rất nhiều.
Một trong những lựa chọn khả dĩ của Fed là tiếp tục thắt chặt chính sách. Nhưng mỗi lần tăng lãi suất sẽ làm gia tăng áp lực lên người đi vay và kéo thị trường chứng khoán đi xuống.
Trên lý thuyết, Fed không có nhiệm vụ phải lo toan cho thị trường chứng khoán, nhưng nếu tài sản trên giấy tờ của giới nhà giàu Mỹ bốc hơi thì chính sách tiền tệ có thể biến thành vấn đề chính trị.
Một số nghị sĩ Đảng Dân chủ phàn nàn rằng các đợt tăng lãi suất của Fed đang làm tổn thương người nghèo, một số thành viên Đảng Cộng hòa đổ lỗi cho ông Powell vì đã để lạm phát vượt quá tầm kiểm soát.
Lựa chọn khác là điều chỉnh mục tiêu lạm phát. Theo tờ Reuters, một số quan chức từng cho rằng giá cả nên tăng khoảng 2% mỗi năm nhưng ý tưởng này thực ra mang tính ngẫu nhiên nhiều hơn là khoa học.
Con số mục tiêu 2% nói trên lan truyền chóng mặt trong giới hoạch định chính sách tiền tệ sau khi được ngân hàng trung ương New Zealand áp dụng vào năm 1990. Tới năm 2012 thì đến lượt Fed cũng gia nhập trào lưu.
Tuy nhiên, việc xóa bỏ mục tiêu cũ có thể khiến công chúng nghĩ Fed đã thất bại. Giới chức Fed lo ngại rằng việc này sẽ khiến kỳ vọng của người tiêu dùng bị xáo trộn, dẫn đến việc người lao động ngày càng đòi được trả lương cao hơn, thúc đẩy giá cả tăng nhanh hơn.
Ông Powell và các đồng nghiệp vẫn có thể tránh được tình thế nan giải trên. Người tiêu dùng có thể sẽ siết chặt ví lại khi tiền tiết kiệm sụt giảm. Các đợt tăng lãi suất có thể gây ra suy thoái. Tuy điều này sẽ gây ra nỗi đau lớn cho nền kinh tế nhưng điểm lợi là nó sẽ giúp kéo lạm phát đi xuống nhanh chóng, như những gì đã xảy ra trong quá khứ.
Một cuộc suy thoái chắc chắn sẽ khiến Chủ tịch Powell bị chỉ trích. Nhưng nếu nền kinh tế không hoạt động theo ý muốn của ngân hàng trung ương, thì có lẽ ông thà hy sinh để khống chế lạm phát còn là nhân nhượng để được công chúng yêu thích.