Đại dịch SARS gần 20 năm trước giúp 3M chớp thời cơ với COVID-19, tăng gấp đôi khả năng sản xuất khẩu trang chỉ sau một đêm
Hôm 21/1, Andrew Rehder, giám đốc nhà máy sản xuất khẩu trang hô hấp 3M tại Aberdeen, nhận cuộc gọi từ trụ sở chính.
Ông nhanh chóng tập hợp 20 nhà quản lí và giám sát vào phòng họp. Họ không cảm thấy lo lắng trước thông tin một virus đang lây lan nhanh ở Trung Quốc và nhu cầu các thiết bị bảo hộ sẽ tăng lên trong thời gian tới.
Trước đó, thực tế, nhà máy tại Aberdeen của 3M cũng đã tăng tốc sản xuất do nhu cầu từ các thảm hoạ như cháy rừng ở Australia và núi lửa phun ở Philippines. Thế nhưng, Andrew yêu cầu tiếp tục chuyển đổi để "tăng vọt năng suất".
3M kích hoạt những chiếc máy vốn chưa được sử dụng và lắp đặt cho chính xác mục đích này. Hơn 650 nhân công bắt đầu làm việc thêm giờ.
"Chúng tôi biết đây không phải câu chuyện của hai tuần, sẽ lâu hơn", Andrew nói. "Nhưng lâu hơn bao lâu thì tôi không biết". Đây chính là khoảnh khắc mà 3M đã chờ đợi và chuẩn bị trong gần hai thập niên.
Từ đại dịch SARS của năm 2002 – 2003, 3M nhận thấy nội tại công ty chưa được trang bị đầy đủ để đối mặt với những tình huống bùng nổ cầu thị trường từ một cuộc khủng hoảng.
Ban quản trị 3M quyết định bổ sung thêm năng lực sản xuất để đáp ứng cho những tình huống mà nó gọi là "nhân tố X" tại tất cả các nhà máy trên thế giới.
Sau nhiều năm, với các "nhân tố X" như dịch Ebola hay cúm H1N1, 3M liên tục tinh chỉnh và hoàn thiện hệ thống phản ứng khẩn cấp. Vì thế, khi thế giới cần để đối mặt với virus corona mới, 3M đã sẵn sàng.
Khắp mọi nơi, người ta đổ xô đi mua máy thở, kit xét nghiệm Covid-19, nước rửa tay và giấy vệ sinh. Song không mặt hàng nào khan hiếm như khẩu trang N95 của 3M, Honeywell, Medicom và một số công ty khác.
Không có nó, các bác sĩ, y tế và đội ngũ trong sóc bệnh nhân đứng trước quá nhiều nguy cơ rằng chính họ cũng sẽ nhiễm bệnh.
Trung Quốc, nơi virus corona khởi phát, sản xuất một nửa số lượng khẩu trang trên thế giới. Khi bệnh dịch bùng phát, Bắc Kinh dừng hoạt động xuất khẩu khẩu trang và yêu cầu tất cả các nhà sản xuất tại đây, bao gồm 3M, đẩy mạnh sản xuất.
Sự khan hiếm nhen nhóm xuất hiện khi COVID-19 lan rộng ra toàn Châu Á, Châu Âu và Mỹ. Ở nhiều nơi, các bác sĩ thậm chí phải tái sử dụng khẩu trang. Bloomberg cho biết tại Mỹ, nhiều bang đang "đấu giá" để mua khẩu trang với mức giá cao gấp 10 lần bình thường.
3M không phải là "anh hùng" duy nhất trong cuộc chiến, song những gì nó đóng góp là không nhỏ. Chỉ trong một thời gian ngắn, 3M tăng gấp đôi sản lượng khẩu trang N95 trên toàn cầu lên con số 100 triệu đơn vị mỗi tháng.
3M đang lên kế hoạch đầu tư vào các thiết bị mới để có thể sản xuất 2 tỉ khẩu trang trong 12 tháng tiếp theo.
Hôm 22/3, Mike Roman, CEO của 3M, nói tập đoàn đã gửi 500.000 khẩu trang tới các thành phố chịu nhiều ảnh hưởng của bệnh dịch tại Mỹ. 3M cũng đẩy mạnh sản xuất ác mặt hàng như nước rửa tay hay chất khử trùng.
Hai ngày sau, Mike Roman công bố hợp tác cùng Ford Motor Co để sản xuất các thiết bị lọc khí cùng với đó là sản xuất dây đeo thắt lưng có thể thổi khí vào mũ bảo hộ của các nhân viên y tế.
Khi nhiều doanh nghiệp trên thế giới "đóng băng" vì bệnh dịch, hơn một nửa trong số 96.000 nhân công của 3M vẫn đi làm tại các nhà máy và nhà kho.
"Thật tuyệt vời", Andrew nói. "Mọi người đều tự hào khi làm việc tại một nhà máy khẩu trang, nhất là khi nhu cầu ở ngoài kia là rất lớn".
3M bắt đầu sản xuất các thiết bị khẩu trang lọc bụi vào năm 1972. Sau dịch SARS, Roman cho biết ông nhận ra 3M không có khả năng sản xuất đủ linh hoạt để đáp ứng các nhu cầu khẩn cấp. "Chúng tôi đã đối mặt với H1N1 sau đó, và rồi những vụ cháy rừng và thảm hoạ, tất cả tạo ra nhu cầu rất lớn trên thị trường".
Từ đây, 3M tinh chỉnh lại toàn bộ quy trình sản xuất của mình. Các nhà máy bắt đầu lắp đặt những chiếc máy không vận hành trừ khi cần thiết. 3M đồng thời thành lập các đội phản ứng khẩn cấp cho tất cả các sự kiện xấu và bất định có thể xảy ra.
Và rồi COVID-19 đã tới. Khi các nhà sản xuất Trung Quốc đóng cửa nghỉ Tết Âm lịch, virus corona mới đã khiến nhu cầu khẩu trang tăng trưởng dựng đứng.
Nhóm chuỗi cung ứng của 3M là những người nhận ra đầu tiên. "Chúng tôi kiểm soát nhu cầu liên tục", Charles Avery, giám đốc chuỗi giá trị toàn cầu của 3M, chia sẻ. "Đây là một nhân tố X".
McCullough, người đã làm việc ở 3M trong suốt 23 năm, bắt đầu cảm thấy lo lắng khi các quốc gia khác áp dụng nhiều biện pháp cẩn trọng ngay cả khi họ chưa có nhiều ca nhiễm bệnh. "Chúng tôi nhận ra virus sẽ lây lan nhanh tới mức nào", bà chia sẻ.
3M còn có một lợi thế khác: Không như nhiều công ty vốn luôn muốn chuyển năng lực sản xuất về các quốc gia có chi phí thấp, 3M áp dụng chiến thuật thu mua nguyên liệu từ các đơn vị cung ứng gần nhà máy và phục vụ nhóm khách hàng cũng nằm trong khu vực khoảng cách địa lí gần.
"Chúng tôi sản xuất khẩu trang tại Trung Quốc chỉ riêng cho thị trường Trung Quốc, chúng tôi sản xuất ở Hàn Quốc chủ yếu cho Hàn Quốc và một số quốc gia lân cận" Roman tiết lộ.
Mỗi nhà máy đều có thể vận chuyển khẩu trang đi bất kì đâu trên thế giới – một điều khá quan trọng trong đại dịch.
Nhà máy Aberdeen tại Mỹ của 3M được xây dựng từ năm 1974 với công suất 400 triệu khẩu trang mỗi năm. Trong năm tới, họ sẽ có thể sản xuất nhiều hơn.
Khi Andrew nhận cuộc gọi từ lãnh đạo của mình hồi tháng 1, ông nói, "về cơ bản, chúng tôi đã đến thời điểm phải khởi động tất cả máy móc. Nó diễn ra ngay lập tức". Đồng thời, 3M đẩy mạnh tuyển dụng. Bất kì nhân công nào cũng phải trải qua giai đoạn đào tạo và kiểm tra y tế trước khi làm việc.
Andrew cũng lắp đặt thêm nhiều thiết bị mới để khởi động thêm dây chyền sản xuất. Nguyên liệu sản xuất khẩu trang không phải vấn đề lớn bởi hầu hết đều do 3M tự sản xuất. 3M áp dụng tự động hóa vào phần lớn quy trình của mình. Con người tham gia chủ yếu vào quy trình đóng gói và một số nhiệm vụ khác có thể đảm bảo cách li xã hội. Ông khẳng định 3M hiện chưa có nhân công dương tính với COVID-19.
Hiện tại, 3M khẳng định không tăng giá khẩu trang song cho biết hãng không thể kiểm soát những gì diễn ra sau khi sản phẩm tới tay các nhà phân phối.
Theo Bloomberg, doanh số mảng khẩu trang của 3M có thể tăng gấp đôi trong năm nay, chạm mốc 600 triệu USD.