5 triệu người tử vong do COVID-19 và dịch bệnh sẽ tiếp diễn như thế nào sắp tới?
Số người tử vong do COVID-19 trên toàn cầu tới nay đã chính thức cán mốc 5 triệu chỉ sau chưa đầy hai năm. Không chỉ các quốc gia nghèo, ngay cả những nước phát triển với hệ thống chăm sóc y tế hàng đầu cũng lao đao vì sự tàn phá của virus SARS-CoV-2, theo South China Morning Post.
Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Anh và Brazil - tất cả quốc gia thuộc nhóm thu nhập cao và trung bình cao - chiếm 1/8 dân số thế giới nhưng ghi nhận gần 50% số ca tử vong do COVID-19 trên toàn cầu. Theo số liệu của Đại học Johns Hopkins, chỉ riêng Mỹ đã ghi nhận hơn 740.000 người thiệt mạng, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
Con số tử vong do COVID-19 có thể cao hơn 2 - 3 lần so với thống kê
Con số tử vong do COVID-19 thực sự được cho là cao hơn nhiều so với mức 5 triệu người được thống kê dựa trên các báo cáo hàng ngày do các cơ quan y tế ở các quốc gia cung cấp.
Dựa trên số ca tử vong bất thường liên quan tới COVID-19, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính số người chết vì dịch bệnh có thể cao gấp 2-3 lần so với thống kê chính thức.
Theo ước tính của tạp chí The Economist, số người chết vì COVID-19 thực sự có thể lên đến 17 triệu.
"Với tôi, con số này đáng tin hơn", giáo sư Arnaud Fontanet, chuyên gia dịch tễ học của Viện Pasteur, cho biết.
Về mặt số liệu, số người tử vong do COVID-19 thấp hơn nhiều so với các đại dịch trước đây. Trong đại dịch cúm Tây Ban Nha, số người chết vào năm 1918-1919 là 50-100 triệu. Đại dịch AIDS, do virus HIV gây ra, khiến 36 triệu người chết trong thời gian 40 năm.
Dù vậy, chuyên gia virus Jean-Claude Manuguerra của Viện Pasteur, nhận định COVID-19 đã gây ra nhiều cái chết trong khoảng thời gian ngắn.
"Nếu không có các biện pháp phòng dịch như đã được triển khai đặc biệt là hạn chế đi lại và tiêm chủng, tình hình có thể tồi tệ hơn nhiều", giáo sư Fontanet nói.
Liệu dịch COVID-19 đã đạt đỉnh?
Theo ông Fontanet, các loại virus thường xuất hiện theo hai giai đoạn. Đầu tiên là giai đoạn "đại dịch bùng nổ", khi virus lan rộng ở những người chưa từng tiếp xúc với virus trước đó.
Trong giai đoạn thứ hai, đại dịch sẽ "lắng xuống", đây là thời điểm ngày càng nhiều người được miễn dịch và sau đó dịch bệnh sẽ dần trở thành một căn bệnh đặc hữu.
"Với COVID-19, đây là lần đầu tiên trong lịch sử dịch bệnh, có một nỗ lực ở quy mô toàn cầu đẩy nhanh sự chuyển đổi giữa hai giai đoạn này", ông Fontanet nói.
Theo đó, sự chuyển giao giữa hai giai đoạn của virus được đẩy nhanh nhờ sự xuất hiện của các loại vắc xin.
"Vắc xin cho phép người dân đạt được miễn dịch nhân tạo, hoàn thành quá trình miễn dịch chỉ trong 18 tháng thay vì từ 3-5 năm, giảm số người tử vong", ông Fontanet nói.
Bởi vậy, các giai đoạn dịch bệnh tiếp theo sẽ có sự khác biệt giữa các nước, tùy thuộc vào tỷ lệ tiêm chủng ở mỗi quốc gia, cũng như mức độ hiệu quả của loại vắc xin được sử dụng.
"Chúng ta vẫn cần thêm nhiều tháng nữa trước khi đến thời điểm thế giới trở nên an toàn. Vấn đề là chúng ta cần biết vắc xin có đủ hiệu quả hay không. Lúc này, virus vẫn tiếp tục lây lan. Mục tiêu hiện nay không còn là xóa sổ virus mà là tránh để người mắc bệnh diễn tiến nặng", ông Fontanet nói.
Độ bao phủ vắc xin toàn cầu sẽ là yếu tố thay đổi
Diễn biến dịch COVID-19 đang dần thay đổi. Tại các quốc gia công nghiệp phát triển, dịch bệnh không còn là vấn đề quá lớn khi đa phần người dân đã được chủng ngừa. Những trường hợp mắc mới chủ yếu là nhóm chưa tiêm vắc xin.
Theo ông Fontanet: “Đối với các nước công nghiệp phát triển, tôi tin rằng dịch COVID-19 đang trên đà trở thành căn bệnh đặc hữu theo mùa, có thể nặng hơn cúm một chút trong vài năm đầu tiên và sau đó sẽ dẫn ổn định".
Khả năng miễn dịch trên phạm vi toàn cầu sẽ ngày càng được tăng cường. Vắc xin có thể giúp làm tăng số người miễn dịch trước COVID-19, bên cạnh những người nhiễm virus tự nhiên, ông nhấn mạnh.
Các quốc gia có năng lực tiêm chủng mạnh như Ấn Độ hay Trung Quốc cũng sẽ trải qua những giai đoạn dịch bệnh tương tự.
Ngoài ra, các nước theo đuổi chiến lược Zero COVID-19 sẽ đối mặt thất bại khi xuất hiện những biến chủng virus siêu lây nhiễm như Delta. Chẳng hạn như Australia và New Zealand, ban đầu theo đuổi Zero COVID-19, đã phải thay đổi chiến lược chống dịch và đẩy nhanh tốc độ tiêm chủng.
Với các nước có khả năng chủng ngừa cho người dân hạn chế như phần lớn quốc gia châu Phi, sẽ có những kịch bản khó đoán hơn và rất khác so với các nước giàu.
Việc dịch bệnh tái bùng phát dữ dội tại Đông Âu là bằng chứng cho thấy, chừng nào mức độ bao phủ vắc xin còn chưa đủ, người dân có nguy cơ đối mặt dịch bệnh nghiêm trọng, gây áp lực lớn cho hệ thống chăm sóc y tế.
Các chuyên gia lưu ý việc các nước Âu - Mỹ đạt tỷ lệ tiêm chủng cao không có nghĩa đại dịch đã qua, bởi cần tính tới tình hình chung trên toàn cầu.
Nỗi lo về một biến chủng mới có khả năng kháng vắc xin
Một trong những vấn đề đáng quan ngại nhất hiện nay là nguy cơ xuất hiện các biến chủng mới có khả năng kháng vắc xin. Khi biến chủng siêu lây nhiễm Delta xuất hiện, các biến chủng phổ biến trước đây như Alpha biến mất, các biến chủng mới như Mu hay Lambda không thể lan rộng.
Các chuyên gia cảnh báo bản thân biến chủng Delta có thể tiếp tục đột biến, với những đặc tính nguy hiểm hơn như kháng vắc xin. "Delta hiện là virus chủ yếu. Từ Delta, chúng ta có nguy cơ chứng kiến một biến chủng của biến chủng này", giáo sư Manuguerra nhận định.
Hiện nay, nhà chức trách Anh đang giám sát và nghiên cứu biến thể AY.4.2, một nhánh virus phụ của biến chủng Delta. Lúc này, chưa có bằng chứng AY.4.2 có khả năng kháng vắc xin mạnh hơn Delta.
"Giám sát di truyền của virus là điều quan trọng cần làm, cho phép xác định kịp thời sự xuất hiện của các biến chủng mới, giúp chúng ta biết liệu chúng có nguy hiểm hơn hoặc dễ lây nhiễm hơn hay không, cũng như để đánh giá khả năng miễn dịch của con người có hiệu quả hay không", ông Manugerra cho biết.